PHẦN IV

Tự Chủ Thời-Đại

Thời Kỳ Nam Bắc Phân Tranh

( 1528 - 1802 )


NHÀ HẬU LÊ Thời-kỳ phân tranh (1533-1788)

CHƯƠNG I Lịch Triều Lược Kỷ

1. Nam-triều Bắc triều

2. Trịnh Nguyễn phân tranh

Nước Nam ta từ khi Ngô Vương Quyền đánh đuổi được quân Nam- Hán, vua Đinh Tiên-hoàng dẹp yên được loạn Thập-nhị Sứ-quân lập thành một nước tự-chủ, đời nọ qua đời kia kế truyền được non 600 năm. Đến đầu thập-lục thế-kỷ, bởi vì vua nhà Lê hoang dâm vô độ, bỏ việc chính-trị đổ-nát, cho nên trong nước loạn-lạc, nhà Mạc nhân dịp mà làm sự thoán-đoạt. Nhà Lê tuy đã mất ngôi, nhưng lòng người còn tưởng nhớ đến công-đức của vua Thái-tổ và vua Thánh-tông, cho nên lại theo phò con cháu nhà Lê trung- hưng lên ở phía nam, lập ra một Triều-đình riêng ở vùng Thanh-hóa, nghệ- an để chống nhau với nhà Mạc. Ấy là thành ra Nam-triều và Bắc-triều; hai bên đánh nhau trong năm sáu mươi năm trời.

Đến khi nhà Lê nhờ có họ Trịnh giúp rập, dứt được nhà Mạc, tưởng là giang-sơn lại thống-nhất như cũ, ai ngờ họ Trịnh và họ Nguyễn lại sinh ra lòng ghen-ghét, gây nên mối thù-oán, rồi mỗi họ hùng-cứ một phương, chia nước ra làm hai mảnh: họ Nguyễn giữ xứ Nam, họ Trịnh giữ xứ Bắc, mỗi họ chiếm-giữ một Xứ để làm cơ-nghiệp riêng của mình. Từ đó giang-sơn chia rẽ, Nam Bắc phân tranh, ấy là một thời-đại riêng trong lịch-sử nước ta vậy.

Nhà Hậu-Lê từ khi trung-hưng lên, con-cháu vẫn giữ ngôi làm vua, nhưng quyền chính-trị ở cả họ Trịnh. Còn ở phía nam thì từ sông Linh-giang trở vào là cơ-nghiệp của họ Nguyễn. Tuy vậy, hai họ chỉ xưng chúa, chứ không xưng vua, và bề ngoài vẫn tôn-phù nhà Lê. Sau này ta hãy chép tóm cả các đời vua và các đời chúa để cho rõ sự kế truyền. Còn những công-việc về thời bấy giờ thì ta sẽ bàn riêng rẽ từng mục cho rõ-ràng.

I. NAM TRIỀU BẮC TRIỀU NAM TRIỀU

Lê Trang Tông (1533-1548) Niên hiệu: Nguyên-hòa

Trang-tông húy là Duy-Ninh, con rốt vua Chiêu-tông. Ông Nguyễn Kim lập ngài lên làm vua ở đất Cầm-chân (Lào), sau đưa ngài về Thanh-Hóa, lập hành-điện ở Vạn-lại.

Trang-tông làm vua được 16 năm, thọ 31 tuổi.

Lê Trung Tông (1548-1556) Niên hiệu: Thuận-bình

Trung-tông húy là Duy Huyên, con vua Trang-tông. Ngài làm vua được 8 năm, thọ 28 tuổi.

BẮC TRIỀU

Thái Tổ Mạc Đăng Dung (1527-1529) Niên hiệu: Minh-Đức

Thái Tông Mạc Đăng Doanh (1530-1540) Niên hiệu: Đại-chính

Nhà Lê trung-hưng lên ở Thanh-hóa.

Hiến Tông Mạc Phúc Hải

(1541-1546) Niên hiệu: Quãng-hòa

Lê Anh Tông (1556 - 1573) Niên hiệu: Thiên-hữu (1557) Chính-trị (1558-1571) Hồng-phúc (1572-1573)

Anh-tông húy là Duy-bang, cháu huyền-tôn ông Lê Trừ, anh vua Thái-tổ ngày trước. Vua Trung-tông không có con, cho nên ông Trịnh Kiểm mới đi tìm ngài về lập nên làm vua.

Khi Trịnh Kiểm mất rồi, quyền về Trịnh Tùng, ngài phải trốn về Nghệ-an. Trịnh Tùng sai người đuổi theo bắt về giết đi. Ngài làm vua được 16 năm, thọ 42 tuổi.

Lê Thế Tông (1573 - 1599) Niên hiệu: Gia-thái (1573-1577) Quang-hưng (1578-1599)

Thế-tông húy là Duy-Đàm, con thứ 5 vua Anh-tông. Trịnh Tùng lập ngài lên làm vua từ lúc còn 7 tuổi.

Trong đời ngài làm vua, Trịnh Tùng dứt được họ Mạc, lấy lại đất Đông-đô. Ngài làm vua được 27 năm, thọ 33 tuổi.

Tuyên Tông Mạc Phúc Nguyên (1546 - 1561) Niên hiệu: Vĩnh-Định (1547) Cảnh-lịch (1548-1553) Quang-bảo (1554-1561)

Mạc phúc Nguyên cố đánh lấy Thanh-hóa nhưng không được.

Mạc Mậu Hợp (1562-1592) Niên hiệu: Thuần-phúc (1562-1565) Sùng-khang (1566-1577) Diên-thành (1578-1585) Đoan-thái (1586-1587) Hưng-trị (1588-1590) Hồng-ninh (1591-1592)

Mạc Mậu Hợp làm vua được 30 năm. Sau bị Trịnh Tùng bắt được đem về chém ở Thăng- long và đem đầu vào bêu ở Thanh-hóa.

Nhà Mạc mất ngôi từ đấy. Nhưng con cháu được nhờ nhà Minh bênh-vực, còn được giữ đất Cao-bằng ba đời nữa. II. TRỊNH NGUYỄN PHÂN TRANH Lê Kính-tông (1600-1619) Niên hiệu: Thận-đức (1600) - Hoằng-định (1601-1619)

Kính-tông húy là duy-tân, con vua Thế-tông. Ngài làm vua đến năm kỷ-mùi (1619) bị Trịnh Tùng bắt phải thắt cổ mà tự tận. Trị-vì được 20 năm, thọ 32 tuổi. TRỊNH

Bình An Vương Trịnh Tùng (1570 - 1620) Miếu hiệu: Thành tổ Triết Vương

Trịnh Tùng tranh quyền của anh, nối nghiệp Trịnh Kiểm đánh phá nhà Mạc, lấy lại đất Đông-đô. Lập ra nghiệp chúa Trịnh, nhưng vẫn tôn vua Lê. NGUYỄN

Đoan Quận Công Nguyễn Hoàng (1600 - 1613)

Truy tôn là Thái-tổ Gia-dụ Hoàng-đế , đương thời gọi là chúa Tiên .

Ông Nguyễn Hoàng là con thứ hai ông Nguyễn Kim, vào trấn đất Thuận-hóa và Quảng- nam lập ra nghiệp chúa Nguyễn.

Lấy đất của Chiêm-thành lập ra phủ Phú-yên. Mất năm quí- sửu (1613), thọ 89 tuổi.

Thụy Quận Công Nguyễn Phúc Nguyên (1613 - 1635)

Truy tôn là Hi-tông Hiến văn Hoàng-đế,

đương thời gọi là chúa Sãi. Ngài là con thứ 6 ông Nguyễn Hoàng, cải họ là Nguyễn-phúc.

Lê Thần Tông (1619-1643) (lần thứ nhất) Niên-hiệu: Vĩnh-tộ (1620-1628) Đức-long (1629-1643) Dương-hòa (1635-1643)

Thần-tông húy là Duy-Kỳ, con vua Kính-tông. Làm vua đến năm quí-mùi (1643) thì nhường ngôi cho Thái-tử, mà làm Thái-thượng-hoàng.

TRỊNH

Trịnh Tùng mất năm quí-hợi (1635).

Thanh Đô Vương Trịnh Tráng (1623 - 1657) Miếu-hiệu là: Văn-tổ Nghị-vương

Trịnh Tráng đánh họ Mạc ở Cao-bằng và khởi sự đánh nhau với họ Nguyễn ở đất Quảng- bình. NGUYỄN

Ông Nguyễn-phúc Nguyên chống với họ Trịnh ở Quảng- bình. Mất năm ất-hợi (1635), thọ 73 tuổi.

Nhân Quận Công Nguyễn Phúc Lan (1635-1648)

Truy tôn là Thần-tông Hiếu- chiêu Hoàng-đế,

đương thời gọi là chúa Thượng .

Ông Nguyễn-phúc Lan là con thứ hai chúa Sãi, đánh nhau với họ Trịnh ở Quảng-bình.

Lê Chân Tông (1634-1649) Niên-hiệu: Phúc-thái

Chân-tông húy là Duy-Hữu, con vua Thần-tông, làm vua được 6 năm, thọ 20 tuổi.

Trong đời ngài, vua nhà Minh là Quế-vương đóng ở Quảng-tây sai sứ sang phong cho ngài là An-nam quốc-vương.

TRỊNH

Trịnh Tráng đánh họ Nguyễn ở phía nam. NGUYỄN

Ông Nguyễn-phúc Lan mất năm mậu-tí (1648), thọ 48 tuổi.

Dũng Quận Công Nguyễn Phúc Tần (1648-1687)

Truy tôn là Thái-tông Hiếu- triết Hoàng-đế,

đương thời gọi là chúa Hiền.

Ông Nguyễn-phúc Tần đánh nhau với họ Trịnh ở đất Nghệ- an. Lấy đất Chiêm-thành lập ra phủ Ninh-hòa và phủ Diên- khánh (tức là đất Khánh-hòa bây giờ).

Lê Thần Tông (1649-1662) (lần thứ hai) Niên-hiệu: Khánh-đức (1649-1652) - Thịnh-đức (1653-1657) - Vĩnh-thọ (1658-1661) - Vạn-khánh (1662)

Chân-tông mất không có con. Trịnh Tráng lại rước Thần- tông Thái-thượng-hoàng về làm vua. Lần thứ hai này ngài làm vua được 13 năm thì mất, thọ 56 tuổi.

TRỊNH

Trịnh Tráng mất năm đinh- dậu (1657)

Tây Vương Trịnh Tạc (1657-1682) Miếu-hiệu: Hoằng-tổ Dương-vương

Trịnh Tạc đánh con cháu nhà Mạc lấy lại đất Cao-bằng. Đặt ra lệ vào chầu vua không lạy, sớ tấu không viết tên, và đặt giường ngồi ở bên tả ngai vua ngự.

NGUYỄN

Nguyễn-phúc Tần (Chúa Hiền) LÊ HUYỀN-TÔNG (1663-1671) Niên-hiệu: Cảnh-trị

Huyền-tông húy là Duy-Vũ, con thứ hai vua Thần-tông. Trong đời ngài làm vua mới khởi đầu thông sứ với nhà Thanh, và cấm đạo Gia-tô. Ngài làm vua được 9 năm, thọ 18 tuổi.

TRỊNH

Trịnh Tạc NGUYỄN

Nguyễn phúc Tần (Chúa Hiền)

Lê Gia Tông (1672-1675) Niên-hiệu: Dương-đức (1672-1773) - Đức-nguyên (1674-1675)

Gia-tông húy là Duy-Hội, con thứ ba vua Thần-tông. Lúc ngài lên hai tuổi thì Thần-tông mất, Trịnh Tạc đem về nuôi trong phủ. Khi vua Huyền-tông mất, không có con, Trịnh Tạc lập ngài lên làm vua, được 4 năm, thọ được 15 tuổi.

TRỊNH

Trịnh Tạc

NGUYỄN

Nguyễn-phúc Tần (Chúa Hiền)

Lê Hi Tông ( 1676-1705) Niên-hiệu: Vĩnh-trị (1678-1680) - Chính-hòa (1680-1705)

Hi-tông húy là Duy-Hợp, con thứ tư vua Thần-tông. Khi Thần-tông mất, bà Trịnh-thị mới có thai được bốn tháng, Trịnh Tạc đem về nuôi ở bên phủ. Gia-tông mất không có con, Trịnh Tạc lập lên làm vua được 29 năm rồi truyền ngôi cho Thái-tử mà làm Thái-thượng-hoàng.

TRỊNH

Trịnh Tạc mất năm nhâm- tuất (1682)

Định Vương Trịnh Căn (1682-1709) Miếu-hiệu là: Chiêu-tổ Khang-vương

Trịnh Căn làm chúa được 28 năm thì mất, truyền ngôi chúa cho cháu huyền-tôn là Trịnh Cương. NGUYỄN

Nguyễn-phúc Tần mất năm đinh-mão (1687), thọ 68 tuổi.

Hoằng Quốc Công Nguyễn Phúc Trăn (1687 - 1691)

Truy tôn là Anh-tông Hiếu- nghĩa Hoàng-đế,

đương thời gọi là chúa Nghĩa .

Lập phủ ở Phú-xuân là chỗ kinh-đô bấy giờ. Mất năm tân- mùi (1691), thọ 43 tuổi.

Tộ Quốc Công Nguyễn Phúc Chu (1691 - 1725)

Truy tôn là Hiến-tông Hiếu- minh Hoàng-đế,

đương thời gọi là Quốc-chúa .

Ông Nguyễn-phúc Chu lấy hết nước Chiêm-thành (nay là đất Bình-thuận) và lại lấy đất Gia-định, Hà-tiên của Chân-lạp.

Lê Dụ Tông (1706-1729) Niên-hiệu: Vĩnh-thịnh (1706-1719) - Bảo-thái (1720-1729)

Dụ-tông húy là Duy-Đường, làm vua được 24 năm, bị Trịnh Cương bắt phải truyền ngôi cho Thái-tử là Duy-Phương. Mất năm tân-hợi (1731), thọ 52 tuổi.

TRỊNH

Trịnh Căn mất năm kỷ-sửu (1709).

An Đô Vương Trịnh Cương (1709 - 1729) Miếu-hiệu là: Hi-tổ Nhân-vương.

Mất năm kỷ-dậu (1729). NGUYỄN

Nguyễn-phúc Chu mất năm ất-tị (1725), thọ 51 tuổi, có 146 người con.

Đỉnh Quốc Công Nguyễn Phúc Trú (1725-1738)

Truy tôn là Túc-tông Hiếu- ninh Hoàng-đế

mở-mang đất Gia-định, và bảo-hộ nước Chân- lạp.

Lê Đế Duy Phương (1729-1732) Niên-hiệu: Vĩnh-khánh

Duy-phương làm vua được 3 năm, bị Trịnh Giang vu cho tư thông với vợ Trịnh Cương, phải bỏ, giáng xuống làm Hôn-đức- công, rồi đến năm nhâm-tí (1732) thì bị giết.

TRỊNH

Trịnh Cương mất.

Uy Nam Vương Trịnh Giang (1729 - 1740) Miếu-hiệu là: Dụ-tổ Thuận-vương

Trịnh Giang làm chúa xa-xỉ và hung-ác quá độ, giặc-giã nổi lên rất nhiều.

NGUYỄN

Nguyễn-phúc Trú.

Lê Thuần Tông (1732-1735) Niên-hiệu: Long-đức

Thuần-tông húy là Duy-Tường. Ngài là con vua Dụ-tông, trước đã được lập làm Thái-tử, sau bị Trịnh Cương bỏ để lập Duy- Phương. Trịnh Giang lại bỏ Duy-Phương lập ngài lên làm vua, mất năm ất-mão (1735), thọ 37 tuổi.

TRỊNH

Trịnh Giang NGUYỄN

Nguyễn-phúc Trú

Lê Ý Tông (1735-1740) Niên-hiệu: Vĩnh-hữu

Ý-tông húy là Duy-Thìn, con vua Dụ-tông, Trịnh Giang bỏ con vua Thuần-tông mà lập ngài.

Năm canh-thân (1740) Trịnh Doanh bắt ngài phải nhường ngôi cho con vua Thuần-tông, rồi làm Thái-thượng-hoàng, mất năm kỷ-mão (1759), thọ 41 tuổi.

TRỊNH

Trịnh Giang bị bỏ năm canh- thân (1740), làm Thái-thượng- vương. Em là Trịnh Doanh lên thay.

Minh Đô Vương Trịnh Doanh (1740 - 1767) Miếu-hiệu là: Nghị-tổ Ân-vương

Trịnh Doanh đánh-dẹp giặc- giã trong nước.

NGUYỄN

Nguyễn-phúc Trú mất năm mậu-ngọ (1738), thọ 43 tuổi.

Vũ-Vương Nguyễn Phúc Khoát (1738 - 1765)

Truy tôn là Thế-tông Hiếu-võ Hoàng-đế.

Ông Nguyễn-phúc Khoát đánh Chân-lạp mở thêm đất ở Gia-định.

Lê Hiển Tông (1740-1786) Niên-hiệu: Cảnh-hưng

Hiển-tông húy là Duy-Diêu, con vua Thuần-tông. Làm vua được 46 năm, thọ 70 tuổi.

TRỊNH

Trịnh Doanh mất năm đinh- hợi (1767).

Tỉnh Đô Vương Trịnh Sâm (1767 - 1782) Miếu-hiệu là: Thánh-tổ Thịnh-vương

Trịnh Sâm dẹp yên giặc ở xứ Bắc. Lấy đất Thuận-hóa và Quảng-nam của chúa Nguyễn. Nhưng vì say-đắm nàng Đặng thị Huệ, mới bỏ con trưởng lập con thứ, làm thành ra cái mối biến-loạn. Mất năm nhâm-dần (1782).

Tôn Đô Vương Trịnh Cán

Làm chúa được 2 tháng bị quân Tam-phủ bỏ đi, lập anh là Trịnh Khải lên làm chúa.

Đoan Nam Vương Trịnh Khải (1783 - 1786)

Bị Tây-sơn bắt được, phải tự tử năm bính-ngọ (1786). NGUYỄN

Võ-vương Nguyễn-phúc Khoát xưng vương-hiệu năm ất- dậu (1765).

Định Vương Nguyễn Phúc Thuần (1765 - 1777)

Truy tôn là Diệu-tông Hiếu- định Hoàng-đế.

Đời ngài làm chúa bị Trương phúc Loan chuyên quyền. Quân Tây-sơn nổi lên đánh phía nam, quân họ Trịnh đánh phía bắc.

Sau quân chúa Trịnh vào lấy mất Phú-Xuân, Định-vương chạy vào Gia-định bị tướng Tây-sơn là Nguyễn văn Huệ giết mất. Ngài thọ 24 tuổi.

Nguyễn Vương Nguyễn Phúc Ánh

Tức là vua Thế-tổ Cao-hoàng- đế nhà Nguyễn khởi binh ở Gia- định.

Lê Mẫn Đế (1787-1788) Niên-hiệu: Chiêu-thống

Mẫn-đế là cháu đích-tôn vua Hiển-tông. Ngài bị quân Tây-sơn đánh thua chạy sang Tàu cầu-cứu, sau đánh thua lại trở sang Tàu, bị quan Tàu làm nhục, rồi mất ở Yên-kinh.

TRỊNH

Ân Đô Vương Trịnh Bồng

Khi quân Tây-sơn về Nam rồi, đảng họ Trịnh lại lập Trịnh Bồng lên làm chúa. Vua gọi Nguyễn hữu Chỉnh ra đánh họ Trịnh, Trịnh Bồng bỏ đi tu.

NGUYỄN

Nguyễn-vương Nguyễn-phúc Ánh khôi-phục đất Gia-định. CHƯƠNG II

NAM-TRIỀU BẮC-TRIỀU (1527-1592)

1. Chính-trị nhà Mạc

2. Việc nhà Mạc giao-thiệp với nhà Minh

3. Họ Nguyễn khởi nghĩa giúp nhà Lê

4. Quyền về họ Trịnh

5. Trịnh Tùng thống-lĩnh binh-quyền

6. Khôi-phục thành Thăng-long

7. Nhà Mạc mất ngôi

8. Việc nhà Hậu-Lê giao-thiệp với nhà Minh

9. Con-cháu nhà Mạc ở Cao-bằng

1. Chính-Trị Nhà Mạc.

Năm đinh-hợi (1527) Mạc đăng Dung cướp ngôi nhà Lê lên làm vua, đặt niên-hiệu là Minh-đức.

Nhà Mạc tuy đã làm vua, nhưng còn sợ lòng người nhớ nhà Lê, cho nên công-việc gì cũng theo phép nhà Lê cả, rồi lại tặng phong cho những người vì nhà Lê mà tuẩn-tiết, và lục dụng những con-cháu các quan cựu thần, phong cho quan-tước để dụ về với mình. Nhưng mà kẻ thì trốn-tránh vào ở chỗ sơn-lâm, kẻ thì đi ra ngoại-quốc, kẻ thì đổi họ tên, không mấy người chịu phục. Lại có kẻ tức-giận vì họ Mạc làm điều gian-ác, tụ họp những người nghĩa-khí nổi lên đánh phá, như Lê công Uyên, Nguyễn Ngã, Nguyễn thọ Trường, khởi-nghĩa ở đất Thanh-hóa, nhưng vì thế-lực không đủ, cho nên phải thua. Sau lại có Lê Ý nổi lên đánh họ Mạc ở đất Mã-giang, mấy phen đã được thắng trận, nhưng cũng vì khinh địch cho nên đến nỗi phải bị bắt.

Mạc đăng Dung bắt chước lối nhà Trần, làm vua được ba năm thì nhường ngôi cho con là Mạc đăng Doanh rồi về ở Cổ-trai, làm Thái-thượng- hoàng.

Năm canh-dần (1530) Mạc đăng Doanh lên làm vua, đặt niên-hiệu là Đại-chính. Đăng Doanh tuy làm vua nhưng công việc trong nước thường do Đăng Dung quyết đoán cả.

Mạc đăng Doanh làm vua được 10 năm, đến năm canh-tí (1540) thì mất, truyền ngôi lại cho con là Mạc phúc Hải.

Mạc phúc Hải lên nối ngôi, đổi niên-hiệu là Quảng-hòa.

2. Việc Nhà Mạc Giao-Thiệp Với Nhà Minh.

Từ khi nhà Mạc cướp ngôi nhà Lê rồi, quan nhà Lê đã có người sang kêu cầu bên Tàu để xin viện binh. Vua nhà Minh đã sai quan đi đến Vân-nam cùng với quan Tuần- phủ sở-tại tra-xét bên An-nam thực hư thế nào.

Quan nhà Lê sang Vân-nam kể rỏ việc họ Mạc làm điều thí nghịch. Quan nhà Minh tâu với vua xin cử binh-mã sang đánh.

Việc định sang đánh họ Mạc không phải là vua nhà Minh có vị gì họ Lê, nhưng chẳng qua cũng muốn nhân lúc nước Nam có biến, lấy cớ mà sang làm sự chiếm giữ như khi trước sang đánh họ Hồ vậy. Ta phải biết rằng phàm những việc nước nọ giao-thiệp với nước kia thì thường là người ta mượn tiếng " vị nghĩa " mà làm những việc " vị lợi " mà thôi.

Năm đinh-dậu (1537) vua nhà Minh bèn sai Cừu Loan làm Đô-đốc, Mao bá Ôn làn Tán-lý-quân-vụ, đem quân sang đóng gần cửa Nam-quan rồi truyền hịch đi mọi nơi, hễ ai bắt được cha con Mạc đăng Dung thì thưởng cho quan-tước và hai vạn bạc. Lại sai người đưa thư sang cho Mạc đăng Dung bảo phải đưa sổ ruộng-đất nhân-dân sang nộp và chịu tội, thì được tha cho khỏi chết.

Mạc đăng Dung sai bọn Nguyễn văn Thái sang sứ nhà Minh để xin hàng.

Đến tháng 11 năm canh-tí (1540), Mạc đăng Dung thấy quân nhà Minh sửa-soạn sang đánh, sợ-hãi quá chừng, bèn để Mạc phúc Hải ở lại giữ nước, rồi cùng với bọn Vũ như Quế cả thảy hơn 40 người, tự trói mình ra hàng, sang chịu tội ở cửa Nam-quan, lạy phục xuống đất để nộp sổ điền-thổ và sổ dân-đinh, lại xin dâng đất 5 động: là động Tê-phu, động Kim-lạc, động Cổ-xung, động Liễu-cát, động La-phù, và đất Khâm-châu. Lại đem vàng bạc dâng riêng cho nhà Minh.

Quan nhà Minh tuy làm bộ hống-hách nói đem binh sang đánh, nhưng cũng sợ phải cái vạ như mấy năm bình-định ngày trước, và lại được tiền bạc của Đăng Dung rồi, cái lòng nhiệt thành vị quốc cũng nguội đi, cho nên mới tâu với vua nhà Minh xin phong cho Mạc đăng Dung làm chức Đô- thống-sứ hàm quan nhị-phẩm nhà Minh.

Mạc đăng Dung đã làm tôi nhà Lê mà lại giết vua để cướp lấy ngôi, ấy là một người nghịch thần; đã làm chủ một nước mà không giữ lấy bờ-cõi, lại đem cắt đất mà dâng cho người, ấy là một người phản quốc. Làm ông vua mà không giữ được cái danh-giá cho trọn-vẹn, đến nỗi phải cởi trần ra trói mình lại, đi đến quì lạy ở trước cửa một người tướng của quân nghịch để cầu lấy cái phú-quí cho một thân mình và một nhà mình, ấy là một người không biết liêm-sỉ.

Đối với vua là nghịch thần, đối với nước là phản quốc, đối với cách ăn-ở của loài người, là không có nhân-phẩm; một người như thế ai mà kính phục? Cho nên dẫu có lấy được giang-sơn nhà Lê, dẫu có mượn được thế nhà Minh bênh-vực mặc lòng, một cái cơ-nghiệp dựng lên bởi sự gian-ác hèn-hạ như thế, thì không bao giờ bền-chặt được. Cũng vì cớ ấy cho nên con cháu họ Lê lại trung-hưng lên được.

3. Họ Nguyễn Khởi-Nghĩa Giúp Nhà Lê.

Khi Mạc đăng Dung làm sự thoán-đoạt thì các quan cựu thần trốn-tránh đi cũng nhiều. Thủa ấy có người con ông Nguyễn hoằng Dụ, tên là Nguyễn Kim (hay là Nguyễn hoằng Kim) 97

làm quan Hữu-vệ Điện-tiền Tướng-quân An-thanh-hầu, trốn sang Ai-lao. Vua nước ấy là Xạ-đẩu cho đến xứ Sầm-châu (thuộc Trấn-man phủ, đất Thanh-hóa). Ông Nguyễn Kim đến ở Sầm-châu rồi cho người đi tìm con-cháu nhà Lê để đồ sự khôi-phục. Đến năm quí-tị (1532) tìm được một người con rốt vua Chiêu-tông tên là Duy-Ninh lập lên làm vua, tức là Trang- tông.

Khi ấy lại có một người tướng giỏi tên là Trịnh Kiểm, ở làng Sóc-sơn, huyện Vĩnh-lộc, phủ Quảng-hóa. Ông Nguyễn Kim thấy người có tài, gả con gái là Ngọc Bảo cho, để cùng ra sức giúp nhà Lê, dứt nhà Mạc.

Vua tôi nhà Lê nương-náu ở Sầm-châu để chiêu-tập quân-sĩ, mãi đến năm canh-tí (1540), ông Nguyễn Kim mới đem quân về đánh Nghệ-an. Năm nhâm-dần (1542) Trang-tông mới cất quân về đánh Thanh-hóa và Nghệ-an, qua năm sau (1543) thì thu phục được đất Tây-đô, quan Tổng-trấn nhà Mạc là Dương chấp Nhất ra hàng.

97

Xem sách Việt Nam Khai Quốc Chí truyện, thì ông Nguyễn Kim tức là ông Nguyễn Hoằng Kim, là con ông Nguyễn Hoằng Dụ, cháu ông Nguyễn Văn Lang, đều làm quan nhà Lê cả. 4. Quyền Về Họ Trịnh.

Năm ất-tị (1545) ông Nguyễn Kim đem quân tiến đánh Sơn-nam, đi đến huyện Yên-mô, bị Dương chấp Nhất là hàng tướng nhà Mạc đánh thuốc độc chết. Những binh-quyền giao cả lại cho con rể là Trịnh Kiểm.

Trịnh Kiểm rút quân về Thanh-hóa, lập hành-điện ở đồn Vạn-lại (thuộc huyện Thụy-nguyên, Thanh-hóa) để cho vua ở, rồi chiêu-mộ những kẻ hào-kiệt, luyện-tập quân-sĩ, tích trữ lương-thảo để lo việc đánh họ Mạc.

Bấy giờ có những người danh-sĩ như là các ông Phùng khắc Khoan (tức là trạng Bùng), ông Lương hữu Khánh đều vào giúp nhà Lê. Giang-sơn bấy giờ chia làm hai: từ Thanh-hóa trở vào thuộc nhà Lê, làm Nam-Triều; từ Sơn-nam trở ra thuộc về họ Mạc, làm Bắc-Triều.

Năm bính-ngọ (1546) Mạc phúc Hải mất, truyền ngôi lại cho con là Mạc phúc Nguyên, niên-hiệu Vĩnh-định.

Năm mậu-thân (1548) vua Trang-tông mất, Trịnh Kiểm lập Thái-tử tên là Duy Huyên lên làm vua, được 8 năm thì mất, tức là Trung-tông.

Vua Trung-tông mất không có con, mà bấy giờ dòng-dõi họ Lê cũng không có ai, việc binh-quyền thì ở trong tay Trịnh Kiểm cả.

Tục truyền rằng Trịnh Kiểm đã lưỡng-lự muốn tự xưng làm vua, nhưng còn chưa dám định hẳn bề nào, các quan cũng không ai biết làm thế nào cho phải. Sau Trịnh Kiểm cho người lẻn ra Hải-dương hỏi ông Nguyễn bỉnh Khiêm 98 , tức là Trạng Trình, xem nên làm thế nào.

Ông Nguyễn bỉnh Khiêm không nói gì cả, chỉ ngảnh lại bảo đầy-tớ rằng: " Năm nay mất mùa, thóc giống không tốt, chúng mày nên tìm giống cũ mà gieo mạ ". Nói rồi lại sai đầy-tớ ra bảo tiểu quét-dọn chùa và đốt hương, để ông ra chơi chùa, rồi bảo tiểu rằng: " Giữ chùa thờ Phật thì ăn oản ".

Sứ-giả về kể chuyện lại cho Trịnh Kiểm nghe. Trịnh Kiểm hiểu ý, mới cho người đi tìm con cháu họ Lê. Sau tìm được người cháu huyền-tôn ông Lê Trừ, là anh vua Thái-tổ, tên là Duy Bang, ở làng Bố-vệ, huyện Đông- sơn, rước về lập lên làm vua.

98

Ông Nguyễn Bỉnh Khiêm làm quan nhà Mạc, được phong là Trình Quốc Công cho nên mới gọi là Trạng Trình, sau về trí sĩ ở làng Trung An, huyện Vĩnh Lại, tỉnh Hải Dương.

Bấy giờ nhà Lê thì lo đánh họ Mạc để khôi phục lại đất Đông-đô, nhà Mạc thì muốn trừ họ Lê để nhất-thống thiên-hạ. Nhưng từ khi ông Nguyễn Kim mất rồi, và trong mấy năm về đời vua Trung-tông, Trịnh Kiểm cứ giữ thế thủ ở đất Thanh-hóa, để sửa-sang việc binh-lương, đợi ngày ra đánh họ Mạc.

Nhà Mạc sai Mạc kính Điển, là chú Mạc phúc Nguyên cầm quân đi đánh họ Lê.

Mạc kính Điển đem binh vào đánh Thanh-hóa cả thảy kể hơn mười phen, phen nào cũng phải thua trở về, Trịnh Kiểm cũng ra đánh Sơn-nam kể vừa 6 lần, nhưng không có lần nào được toàn thắng. Chỉ có năm kỷ-mùi (1559) Trịnh Kiểm đem 6 vạn quân ra đánh mặt Bắc, đã lấy được những tỉnh Sơn-tây, Hưng-hóa, Thái-nguyên, Kinh-bắc, Lạng-sơn, và các huyện ở mặt Hải-dương, tưởng đã sắp thành-công, nhưng lại bị Mạc kính Điển đem một đạo quân đi đường bộ vào đánh Thanh-hóa nguy-cấp lắm, Trịnh Kiểm lại phải bỏ miền Bắc về giữ đất Tây-đô. Thành ra hai bên cứ giữ nhau mãi: nhà Lê tuy đã trung-hưng, nhưng giang-sơn vẫn chưa thu được lại như cũ, mà nhà Mạc có làm vua, thì cũng chỉ làm vua ở miền Bắc mà thôi.

Năm tân-dậu (1561) vua nhà Mạc là Phúc Nguyên mất, con là Mạc mậu Hợp lên nối ngôi làm vua.

Việc tranh chiến vẫn cứ như trước: khi thì Trịnh Kiểm ra đánh Sơn- nam, khi thì Mạc kính Điển vào đánh Thanh-hóa, hai bên không bên nào được hẳn.

5. Trịnh Tùng Thống-Lĩnh Binh-Quyền.

Năm canh-ngọ (1570) Trịnh Kiểm mất, trao quyền lại cho con trưởng là Trịnh Cối để lo việc đánh dẹp. Nhưng Trịnh Cối hay say đắm tửu sắc, tướng-sĩ không mấy người phục; lại có em là Trịnh Tùng ý muốn cướp quyền của anh, bèn cùng với bọn Lê cập Đệ, Trịnh Bách rước vua về đồn Vạn-lại, rồi chia quân ra chống với Trịnh Cối.

Đương khi hai anh em họ Trịnh đánh nhau, thì Mạc kính Điển lại đem hơn 10 vạn quân vào đánh Thanh-hóa, Trịnh Cối liệu thế địch không nổi, bèn đem quân về hàng họ Mạc, được giữ quan-tước như cũ. Quân nhà Mạc thừa thế tiến lên đến sông Mã-giang, tràn sang đóng ở đất Hà-trung, rồi đến vây đánh An-trường (thuộc huyện Thụy-nguyên) là chỗ vua nhà Lê đóng.

Bấy giờ vua Anh-tông về ở Đông-sơn, phong cho Trịnh Tùng làm tả- thừa-tướng, tiết chế chư quân, để chống giữ với quân nhà Mạc. Trịnh Tùng sai các tướng giữ mọi nơi rất là chắc-chắn. Mạc kính Điển đánh mãi không được, lâu ngày hết lương phải rút quân về Bắc.

Quân nhà Mạc rút về rồi, vua phong cho Trịnh Tùng làm Thái-úy Trưởng-quốc-công, và thăng thưởng cho các tướng-sĩ. Lại sai ông Phùng khắc Khoan đi chiêu-tập những hoang dân ở Thanh-hóa về yên-nghiệp làm ăn, và chỉnh-đốn việc chính-trị lại.

Bấy giờ việc gì cũng do Trịnh Tùng quyết-đoán cả, uy-quyền hống- hách, vua cũng lấy làm lo. Lê cập Đệ thấy vậy, mưu với vua để trừ họ Trịnh, nhưng Trịnh Tùng biết ý dùng mưu giết Cập Đệ, vua Anh-tông biết sự không thành, lo sợ lắm, bèn cùng với bốn hoàng-tử chạy vào Nghệ-an.

Trịnh Tùng thấy vua xuất ngoại rồi, bèn cho người đi rước hoàng-tử thứ năm là Duy Đàm, ở làng Quảng-thi, huyện thụy-nguyên về làm vua, rồi sai Nguyễn hữu Liêu đem binh đi đuổi theo vua Anh-tông.

Anh-tông vào đến đất Nghệ-an, thấy quân đuổi đến, vội-vàng ẩn vào trong vườn mía, nhưng bị Hữu Liêu tìm thấy đưa về, đến huyện Lôi-dương thì Trịnh Tùng sai người đến giết đi, rồi nói rằng vua thắt cổ chết.

Trịnh Tùng giết vua Anh-tông rồi, thăng thưởng cho những người đồng đảng với mình, và chia quân ra phòng giữ các nơi để chống với quân nhà Mạc.

Từ năm quí-dậu (1573) cho đến năm quí-mùi (1583) vừa 10 năm, Trịnh Tùng cứ giữ vững đất Thanh-hóa, Nghệ-an, để cho quân nhà Mạc vào đánh phải hao binh tổn tướng. Trong bấy nhiêu năm, tướng nhà Mạc là Mạc kính Điển, Nguyễn Quyện, và Mạc ngọc Liễn, khi thì vào đánh Thanh-hóa, khi thì vào đánh cả mặt Thanh và mặt Nghệ, nhưng mà không bao giờ thành công, phen nào cũng được một vài trận rồi lại thua, phải rút quân về.

Từ năm ất-mão (1579) trở đi, Mạc kính Điển mất rồi, Mạc đôn Nhượng đem binh vào đánh họ Lê, nhưng cũng không được trận nào.

6. Khôi-Phục Thành Thăng-Long.

Đến năm quí mùi (1583) Trịnh Tùng xem thế mình đã mạnh, mới cử binh mã ra đánh Sơn-nam lấy được thóc gạo đem về. Từ đó về sau năm nào cũng ra đánh, bắt quân nhà Mạc phải đổi thế công ra thủ. Và nhà Mạc thấy thế nhà Lê một ngày một mạnh, bèn bắt quân-dân đắp ba từng lũy, đào ba lần hào ở ngoài thành Đại- la để làm kế thủ-bị.

Quân nhà Lê ra đánh trận nào được trận ấy, Trịnh Tùng bèn quyết ý cử đại binh ra đánh Thăng-long.

Năm tân-mão ( 1591 ) Trịnh Tùng sai Diễn-quận-công Trịnh văn Hải, Thái-quận-công Nguyễn thất Lý đem binh trấn-thủ các cửa bể và các nơi hiểm-yếu. Sau Thọ-quận-công Lê Hòa ở lại giữ ngự-dinh và cả địa hạt Thanh-hóa. Phòng bị đâu đó rồi, bèn đem hơn 5 vạn quân chia ra làm 5 đội, sai quan Thái-phó Nguyễn hữu Liêu, quan Thái-úy Hoàng đình Ái, Lân-quận- công Hà thế Lộc, Thế-quận-công Ngô cảnh Hữu, mỗi người lĩnh một đội, còn Trịnh Tùng tự lĩnh 2 vạn quân ra cửa Thiên-quan (Ninh-Bình) qua núi Yên mã (ở huyện An-sơn ) đất Tân-phong (tức là Tiên-phong ) rồi kéo về đóng ở Tốt-lâm ( ? ) .

Vua nhà Mạc là Mạc mậu Hợp cũng điều-động tất cả quân bốn vệ và quân năm phủ được hơn 10 vạn, sai Mạc ngọc Liễn và Nguyễn Quyện lĩnh hai đạo tả hữu, Mậu Hợp tự dẫn trung-quân đến đóng đối trận với quân Trịnh Tùng.

Trịnh Tùng thấy quân Mạc đã đến, bèn tự mình dốc tướng-sĩ thề đánh cho được để báo thù. Quân họ Trịnh đánh rất hăng, quân nhà Mạc đánh không nổi, thua to, chết đến hàng vạn người. Mạc mậu Hợp bỏ chạy. Quân họ Trịnh thừa thế đuổi tràn gần đến thành Thăng-long. Nhưng vừa đến tết Nguyên-đán, cho nên Trịnh Tùng đình-chiến lại cho quân-sĩ nghỉ- ngơi ăn tết. Qua sang tháng giêng năm nhâm-thìn ( 1592 ) Trịnh Tùng lập đàn tế trời đất và các vua nhà Lê rồi đặt ba điều ước để cấm quân-sĩ.

1. Không được vào nhà dân mà lấy đồ ăn và củi-đuốc.

2. Không được cướp lấy của-cải và chặt lấy cây-cối.

3. Không được dâm hiếp đàn-bà con-gái, và không được

vì tư thù mà giết người.

Ai phạm ba điều ấy thì cứ theo quân-pháp mà trị. Đoạn rồi, tiến quân lên đánh Thăng-long thành.

Mạc mậu Hợp thấy quân nhà Lê lại tiến lên, bèn sai Mạc ngọc Liễn, Bùi văn Khuê, Nguyễn Quyện và Trần bách Niên ở lại giữ thành Thăng-long, rồi đem quân sang sông Nhị-hà về đóng ở làng Thổ Khối.

Trịnh Tùng sai tướng chia quân vây đánh các cửa thành. Quân nhà Mạc giữ không nổi, ba tầng lũy đều phải phá cả bọn Mạc ngọc Liễn, Bùi văn Khuê phải bỏ thành mà chạy, Nguyễn Quyện thì bị bắt.

Trịnh Tùng lấy được thành Thăng-long rồi bắt quân phá những hào lũy đi, sau phẳng ra làm bình địa, rồi về Thanh-hóa đem tin thắng trận cho vua biết.

Sử không nói rõ tại làm sao Trịnh Tùng đã lấy được Thăng-long mà không đánh rấn đi, lại bỏ về Thanh-hóa. Có lẽ là tại quân họ Trịnh tuy thắng trận, nhưng tướng sĩ đều mỏi-mệt cả, vả lại thế họ Mạc hãy còn mạnh, ở lại giữ không nổi, cho nên phải bỏ mà về.

Trịnh Tùng đã bỏ Thăng-long về Thanh-hóa, nhưng Mậu Hợp không biết nhân lấy dịp ấy mà sửa sang việc võ-bị, chỉnh-đốn việc chính-trị, lại cứ say đắm tửu sắc, bạc đãi các tướng-sĩ, đến nỗi công-việc hỏng nát, thân mình bị hại.

Bấy giờ Bùi văn Khuê có người vợ tên là Nguyễn-thị nhan sắc hơn người, Mạc mậu Hợp muốn giết Văn Khuê đi để lấy Nguyễn-thị làm vợ.

Văn Khuê biết ý đem vợ vào ở huyện Gia-viễn ( thuộc Ninh-bình ) Mậu Hợp cho quân vào bắt. Văn Khuê phải xin về hàng với Trịnh Tùng.

7. Nhà Mạc Mất Ngôi.

Trịnh Tùng được Văn Khuê về hàng, mừng lắm, liền sai Hoàng đình Ái ra đón Văn Khuê rồi đem đi làm tiền đội, tự mình lại đem đại binh trở ra Tràng-an, gặp quân nhà Mạc ở sông Thiên-phái ( ở về cuối huyện Ý-yên và huyện Phong-doanh, tỉnh Nam-định ), đánh nhau một trận, lấy được 70 chiếc thuyền, tướng nhà Mạc là Trần bách Niên về hàng.

Quân Trịnh Tùng kéo ra Bình-lục, sang Thanh-oai đóng ở bãi Tinh- thần ( bây giờ là xã Thanh-thần ở huyện Thanh-oai ) rồi tiến lên đến sông Hát-giang, cửa sông Đáy ra sông Hồng-hà, gặp tướng nhà Mạc là Mạc ngọc Liễn, đánh đuổi một trận lấy được chiến thuyền kể hằng nghìn chiếc.

Mạc mậu Hợp được tin quân mình thua to, bỏ thành Thăng-long chạy sang Hải-dương về đóng ở kim-thành thuộc Hải-dương.

Trịnh Tùng ra đến Thăng-long, rồi sai Nguyễn thất Lý, Bùi văn Khuê và Trần bách Niên sang đánh Mậu Hợp ở Kim-thành, lấy được vàng bạc của cải nhiều lắm, và bắt được mẹ Mậu Hợp đem về.

Mạc mậu Hợp thấy quân mình thua luôn, bèn giao quyền chính-trị cho con là Mạc Toàn rồi tự mình làm tướng đem quân đi đánh.

Bấy giờ quan nhà Mạc là bọn Đỗ Uông, Ngô Tạo, cả thảy 17 người về hàng nhà Lê.

Trịnh Tùng sang đóng quân ở huyện Vĩnh-lại, rồi sai Phạm văn Khoái đem quân đi đuổi đánh Mậu Hợp ở huyện Yên-dũng và huyện Vũ-ninh ( nay là Vũ-giang ). Mạc mậu Hợp phải bỏ thuyền chạy lên bộ, vào ẩn trong cái chùa ở huyện Phượng-nhỡn. Văn Khoái đuổi đến đấy, có người chỉ dẫn bắt được đem về Thăng-long, làm tội sống ba ngày, rồi chém đầu vào bêu ở trong Thanh-hóa.

Bấy giờ có con Mạc kính Điển là Mạc kính Chỉ ở đất Đông-triều biết tin Mạc mậu Hợp đã bị bắt, bèn tự lập làm vua, đóng ở huyện Thanh-lâm. Con cháu họ Mạc hơn 100 người và các quan văn võ đều về đấy cả, rồi treo bảng chiêu mộ quân-sĩ, chẳng bao lâu được sáu bảy vạn người. Mạc Toàn là con Mạc mậu Hợp cũng theo về với Mạc kính Chỉ.

Trịnh Tùng thấy Kính Chỉ lại nổi lên, thanh thế to lắm, quan quân đánh mãi không được, bèn đem quân sang đánh ở huyện Cẩm-giang và Thanh-lâm, bắt được Kính Chỉ và con cháu họ Mạc cùng các quan cả thảy hơn 60 người.

Trịnh Tùng đánh được trận ấy, rồi về Thăng-long, sai quan vào rước vua Thế-Tông ra Đông-đô, mở triều và thăng thưởng cho các tướng-sĩ.

Năm sau, tướng nhà Mạc là Mạc ngọc Liễn tìm được một người con Mạc kính Điển là Mạc kính Cung lập lên làm vua, chiếm giữ châu Yên-bác ở đất Lạng-sơn để làm căn-bản. Nhưng chẳng bao lâu quan Thái-úy là Hoàng đình Ái đem binh lên đánh. Mạc kính Cung và Mạc ngọc Liễn phải chạy sang Long-châu. Ít lâu Ngọc Liễn chết có để thư lại dặn Kính Cung rằng : " Nay họ Lê lại dấy lên được, ấy là số trời đã định; còn dân ta thì có tội gì, mà ta nỡ để khổ sở mãi về việc chiến-tranh ? Vậy ta nên đành phận lánh mình ở nước ngoài, chứ đừng có đem lòng cạnh-tranh mà lại mời người Tàu sang làm hại dân nước mình . "

Trung-hậu thay, mấy lời dạy lại của Mạc ngọc Liễn! Chỉ tiếc vì họ Mạc không ai chịu theo!

Từ đó nhà Mạc mất ngôi làm vua, ngày sau tuy Mạc kính Cung nhờ có nhà Minh bênh-vực được về ở đất Cao-bằng, nhưng cũng là ở một chỗ nhỏ-mọn gần chỗ biên-thùy mà thôi.

Nhà Mạc làm vua từ Mạc đăng Dung cho đến Mạc mậu Hợp là từ năm đinh-hợi ( 1527 ) đến năm nhâm-thìn ( 1592 ) kể vừa được 65 năm.

Trịnh Tùng tuy đã lập được công to dứt được nhà Mạc, lấy lại được đất Đông-đô, nhưng nhà Minh vẫn có ý bênh nhà Mạc không chịu nhận nhà Lê. Và con cháu nhà Mạc hãy còn nhiều; nay xưng vương chỗ này, mai khởi loạn chỗ khác, cho nên Trịnh Tùng phải một mặt dùng trí mà giữ cho nhà Minh khỏi quấy nhiễu, và một mặt dùng lực mà đánh dẹp dư-đảng họ Mạc.

8. Việc Nhà Hậu-Lê Giao-Thiệp Với Nhà Minh.

Khi Trịnh Tùng đã thu-phục được thành Thăng-long rồi, người nhà Mạc sang kêu với vua nhà Minh rằng họ Trịnh nổi lên tranh ngôi, chứ không phải con-cháu nhà Lê.

Vua nhà Minh sai quan đến Nam-quan khám-xét việc ấy.

Tháng 3 năm bính-thân ( 1596 ) vua Thế-tông sai quan Hộ-bộ Thượng-thư là Đỗ Uông và quan Đô-ngự-sử là Nguyễn văn Giai lên Nam- quan tiếp quan Tàu. Sau lại sai hai ông hoàng-thân là Lê Cánh, Lê Lựu cùng với quan Công-bộ tả-thị-lang là Phùng khắc Khoan đem 10 người kỳ-mục, 100 cân vàng, 1,000 cân bạc, cái ấn An-nam Đô-thống-sứ của nhà Mạc và cái ấn An-nam-quốc-vương của vua nhà Lê ngày trước, sang cho quan nhà Minh khám. Nhưng quan nhà Minh lại bắt vua Thế-tông phải thân hành sang hội ở cửa Nam-quan.

Trịnh Tùng sai Hoàng đình Ái, Nguyễn hữu Liêu đem một vạn quân đi hộ giá, đưa vua sang phó hội. Sang đến nơi, quan nhà Minh lại đòi phải nộp người vàng và ấn vàng như tích cũ, rồi không chịu đến hội. Vua chờ lâu, không xong việc lại phải trở về.

Đến tháng tư năm sau, sứ nhà Minh lại sang mời vua Thế-tông lên hội ở Nam-quan. Triều-đình sai quan Thái-úy Hoàng đình Ái đem 5 vạn quân đi hộ giá sang hội ở Nam-quan.

Đến khi xa giá về, Trịnh Tùng đem các quan đi đón mừng rồi sai Công-bộ tả-thị-lang Phùng khắc Khoan làm chánh-sứ, quan Thái-Thường tự- khanh Nguyễn nhân Thiệm làm phó sứ, đem đồ lễ sang Yên-kinh cống nhà Minh và xin phong.

Vua nhà Minh chỉ phong cho vua Thế-tông làm An-nam Đô-thống- Sứ. Ông Phùng khắc Khoan dâng sớ tâu rằng : " Đô-thống-sứ là chức cũ của họ Mạc, chứ vua nước Nam là dòng dõi họ Lê, mà phong cho chức ấy thì không xứng-đáng

" . Vua nhà Minh trả lời rằng : vẫn biết họ Lê không ví như họ Mạc, nhưng lúc đầu mới phong hãy tạm cho chức ấy, rồi về sau sẽ phong vương.

Ông Phùng khắc Khoan phải chịu mà về. Từ đó nhà Minh với nhà Lê lại thông sứ như trước.

9. Con cháu nhà Mạc ở Cao-Bằng.

Từ khi Mạc mậu Hợp và Mạc kính Chỉ bị bắt rồi, con cháu họ Mạc ẩn ở các nơi để mong đường khôi- phục. Bấy giờ có Mạc kính Chương xưng làm Tráng-vương, chiếm-giữ từ huyện Đông-triều cho đến đất Yên-quảng.

Năm bính-thân ( 1596 ) Trịnh Tùng sai quan Trấn-thủ Hải-dương là Phan Ngạn đánh bắt được Kính Chương.

Lại có người Mạc kính Dụng là con Mạc kính Chi chiếm-giữ đất Yên- bắc ( Lạng-sơn ) xưng làm Uy-vương, nhưng cũng chẳng bao lâu bị quân họ Trịnh bắt được.

Còn Mạc kính Cung trước đã chạy sang ở Long-châu, sau lại về cùng với đảng mình đánh phá ở đất Cao-bằng và đất Lạng-sơn. Trịnh Tùng sai quan lên đuổi đánh, nhưng Mạc kính Cung sang kêu với nhà Minh, vua nhà Minh cho đưa thư sang bắt nhà Lê phải để đất Cao-bằng cho con cháu họ Mạc.

Nhà Lê bất-đắc-dĩ phải để đất Cao-bằng cho họ Mạc ở.

CHƯƠNG lll

Trịnh-Nguyễn phân tranh

1. Họ Trịnh xưng chúa miền Bắc

2. Họ Nguyễn xưng chúa miền Nam

1. Họ Trịnh Xưng Chúa Miền Bắc.

Từ khi Trịnh Tùng dứt được họ Mạc, thu giang sơn lại cho nhà Lê rồi, mỗi ngày một kiêu hãnh, chiếm giữ lấy quyền chính trị và lại hà hiếp nhà vua. Họ Nguyễn ở trong Thuận-hóa thấy họ Trịnh chuyên quyền, cũng tự xưng độc-lập ở miền Nam, làm thành ra Nam Bắc đôi nơi và gây nên sự chiến tranh rất là tàn-hại cho nước nhà.

Năm kỷ-hợi ( 1599 ) đời vua Thế-tông nhà Lê, Trịnh Tùng thu-xếp xong việc thông sứ với nhà Minh, và đã chịu nhường đất Cao-bằng cho con- cháu nhà Mạc rồi, trong nước đã yên dần, bèn tự xưng làm Đô-nguyên-súy Tổng-quốc-chính Thượng-phu Bình-an-vương rồi định lệ cấp bổng cho vua được thu thuế 1.000 xã, gọi là lộc thượng-tiến, cấp cho vua 5.000 lính để làm quân túc-vệ. Còn những việc đặt quan, thu thuế, bắt lính, trị dân, đều thuộc về họ Trịnh cả. Chỉ có khi nào thiết triều hay là tiếp sứ thì mới cần đến vua mà thôi.

Từ đó về sau, họ Trịnh cứ thế tập làm vương, tục gọi là chúa Trịnh.

Uy quyền họ Trịnh bấy giờ hống-hách như thế và các quan lại theo về họ Trịnh cả. Giả-sử Trịnh Tùng có muốn dứt nhà Lê đi mà làm vua, thì cũng không khó gì. Tuy vậy mà Trịnh Tùng không dám làm, là tại sao ? Tại lẽ rằng ở phía Bắc sợ nhà Minh sinh sự lôi thôi, lại có họ Mạc còn giữ đất Cao-bằng nhỡ có làm điều gì phản-trắc, thì e quân nghịch nổi lên lấy thù Lê thảo Trịnh làm cớ.

Và chăng mặt Nam còn có họ Nguyễn, thế-lực cũng chẳng kém-hơn gì, mà lại có ý độc-lập để tranh quyền với họ Trịnh. Chi bằng không lấy nước cũng như lấy nước, không làm vua mà lại hơn vua. Vì bao giờ có phải đi đánh-dẹp nơi nào, vẫn lấy lệnh thiên tử mà sai khiến mọi người, không ai bắt-bẻ gì được. Bởi thế cho nên họ Trịnh đành chịu ngôi thứ nhì trong nước mà giữ quyền cả nước.

2. Họ Nguyễn Xưng Chúa Miền Nam.

Nguyên khi xưa ông Nguyễn Kim khởi-nghĩa giúp nhà Lê đánh nhà Mạc đi lấy được đất Thanh- nghệ rồi , sau đem quân ra đánh Sơn-nam bị hàng tướng nhà Mạc nhà Mạc là Dương chấp Nhất đánh thuốc độc chết, binh quyền giao cả lại cho rể là Trịnh Kiểm để đánh giặc.

Ông Nguyễn Kim có hai người con là Nguyễn Uông và Nguyễn Hoàng cũng làm tướng lập được nhiều công. Người anh là Nguyễn Uông được phong là Lang-quận-công, người em là Nguyễn Hoàng được phong là Thái-úy Đoàn-quận-công.

Nhưng vì Trịnh Kiểm sợ họ Nguyễn tranh mất quyền mình, bèn kiếm chuyện mà giết Nguyễn Uông đi. Còn Nguyễn Hoàng cũng sợ Trịnh Kiểm có ý ám hại, chưa biết thế nào mới cho người ra Hải-dương hỏi ông Nguyễn bỉnh Khiêm. Ông ấy bảo rằng : " Hoành-sơn nhất đái, vạn đại dung thân

" nghĩa là một dãy Hoành-sơn 99

kia có thể yên thân được muôn đời.

Nguyễn Hoàng mới nói với chị là bà Ngọc Bảo xin Trịnh Kiểm cho vào trấn phía Nam.

Năm mậu-ngọ ( 1558 ) đời vua An-tông, Trịnh Kiểm mới tâu vua cho Nguyễn Hoàng vào trấn đất Thuận-hóa. Bấy giờ những người họ hàng ở huyện Tống-sơn cùng những quân lính ở đất Thanh-nghệ nhiều người đưa cả vợ con theo đi. Nguyễn Hoàng vào đóng ở Xã Ái-tử ( sau gọi là kho Cây- khế ), thuộc huyện Đăng-xương, tỉnh Quảng-trị.

Nguyễn Hoàng là một người khôn-ngoan mà lại có lòng nhân-đức, thu-dùng hào-kiệt, yên-ủi nhân-dân, cho nên lòng người ai cũng mến-phục.

Đến năm kỷ-tỵ ( 1569 ) ông ra chầu vua ở An-tràng. Qua năm sau Trịnh Kiểm gọi quan tổng-binh ở Quảng-nam là Nguyễn bá Quýnh về giữ đất Nghệ-an, và lại cho ông vào trấn cả đất Thuận-hóa và đất Quảng-nam. Lệ mỗi năm phải nộp thuế là 400 cân bạc, 500 tấm lụa.

Năm nhâm-thân ( 1572 ) nhân lúc Trịnh Kiểm mới mất, con là Trịnh Cối và Trịnh Tùng đánh nhau, nhà Mạc đem quân vào đánh Thanh-hóa và sai tướng là Lập Bạo đem một toán quân đi 60 chiếc thuyền, bởi đường hải- đạo kéo vào đóng ở làng Hồ-xá và ở làng Lạng-uyển ( thuộc huyện Minh-linh ) để đánh Nguyễn Hoàng.

99

Núi Hoành Sơn là núi Đèo Ngang ở tỉnh Quảng Bình

Ông mới sai một người con gái đẹp là Ngô-thị giả làm cách đưa vàng bạc sang nói với Lập Bạo xin cầu hòa. Lập Bạo mừng rỡ, không phòng bị gì cả, bị quân họ Nguyễn đánh lẻn, bắt được giết đi, và đánh tan quân nhà Mạc.

Năm quí-tị ( 1593 ) Trịnh Tùng đã lấy được thành Thăng-long, bắt được Mạc mậu Hợp, nhưng mà đảng nhà Mạc còn nhiều, phải đánh dẹp nhiều nơi, Nguyễn Hoàng đưa quân-binh và súng-ống ra Đông-đô, ở hằng 8 năm, giúp Trịnh Tùng để đánh họ Mạc, lập được nhiều công to. Nhưng mà Trịnh Tùng vẫn có ý ghen ghét không muốn cho ngài về Thuận-hóa, mà ngài cũng không có dịp gì mà về được.

Năm canh-tý ( 1600 ) nhân vì họ Trịnh kiêu hãnh quá, các quan có nhiều người không phục ; bọn Phan Ngạn, Ngô đình Hàm, Bùi văn Khuê khởi binh chống lại với họ Trịnh ở cửa Đại-an ( thuộc Nam-định ), Nguyễn Hoàng mới đem bản bộ tướng-sĩ giả cách nói đi đánh giặc, rồi theo đường hải-đạo về Thuận-hóa.

Nguyễn Hoàng về Thuận-hóa rồi, sợ họ Trịnh nghi-ngờ, bèn đem người con gái là bà Ngọc Tú gả cho Trịnh Tráng là con trai Trịnh Tùng. Ngài ở giữ đất Thuận-hóa, cho người con thứ sáu vào trấn đất Quảng-nam dựng ra kho tàng, tích-trữ lương thực.

Từ đấy trở đi, Nam Bắc phân-biệt, bề ngoài thì làm ra bộ hòa-hiếu, nhưng bề trong thì vẫn lo việc phòng-bị để chống cự với nhau.

CHƯƠNG IV

Sự Chiến Tranh

1. Họ Trịnh đánh họ Mạc ở Cao Bằng. 2. Nhà Thanh dấy nghiệp. 3. Tình thế họ Nguyễn ở miền Nam. 4. Đánh nhau lần thứ nhất. 5. Đánh nhau lần thứ hai. 6. Đánh nhau lần thứ ba. 7. Đánh nhau lần thứ tư. 8. Đánh nhau lần thứ năm. 9. Đánh nhau lần thứ sáu. 10. Đánh nhau lần thứ bảy.

1. Họ Trịnh Đánh Họ Mạc ở Cao Bằng.

Năm kỷ hợi (1599), vua Thế Tông mất, Trịnh Tùng cùng với các quan triều thần lập hoàng tử là Duy Tân lên làm vua, tức là vua Kính Tông. Qua năm sau (1600) bọn Phan Ngạn, Ngô Đình Hàm và Bùi Văn Khuê nổi loạn ở cửa Đại An. Trịnh Tùng ở Thăng Long sợ bốn mặt thụ địch, bèn rước vua vào Thanh Hóa.

Đảng họ Mạc thấy thành Thăng Long bỏ không, bèn rước bà thứ mẫu của Mậu Hợp là Bùi Thị về tôn lên làm quốc mẫu, rồi cho người lên đón Mạc Kính Cung ở đất Cao Bằng.

Phan Ngạn và Bùi Văn Khuê lại nghi ngờ nhau rồi giết lẫn nhau, còn Ngô Đình Hàm thì về giúp nhà Mạc.

Trịnh Tùng đem Kính Tông vào Thanh Hóa rồi thu xếp ra lấy lại Thăng Long, nhưng còn sợ mặt Thuận Hóa có biến chăng, bèn sai quan vào ủy dụ Nguyễn Hoàng; đoạn rồi đem thủy bộ đại quân ra Bắc, đánh bắt được Bùi Thị giết đi, còn Mạc Kính Cung bỏ chạy sang Kim Thành ở Hải Dương, sau thấy đảng của mình thua cả, lại bỏ Kim Thành chạy lên Cao Bằng.

Trịnh Tùng lấy lại Thăng Long rồi sai quan vào rước vua ra, và sai các tướng đi tiễu trừ đảng họ Mạc ở mặt Thái Nguyên, Lạng Sơn và Yên Quang.

Trịnh Tùng càng ngày càng kiêu hãnh quá, vua cũng không chịu được, lại nhân họ Trịnh có con là Trịnh Xuân muốn ganh quyền với người con trưởng là Trịnh Tráng, vua Kính Tông mới mưu với Trịnh Xuân để giết Trịnh Tùng, nhưng chẳng may sự không thành. Trịnh Tùng bức vua phải thắt cổ chết, và bắt Trịnh Xuân giam mấy tháng rồi tha.

Trịnh Tùng giết vua Kính Tông rồi, lập Hoàng Tử là Duy Kỳ lên làm vua, tức là vua Thần Tông.

Năm quý hợi (1623) Trịnh Tùng đau, hội các quan lại giao binh quyền cho con là Trịnh Tráng, và cho Trịnh Xuân làm phó.

Trịnh Xuân không bằng lòng, đem binh làm loạn, đốt phá kinh thành, Trịnh Tùng thấy biến, chạy về xã Hoàng Mai, vào nhà Trịnh Đỗ, rồi cho gọi Trịnh Xuân đến bắt giết đi. Được mấy hôm Trịnh Tùng mất ở chùa Thanh Xuân, thuộc huyện Thanh Trì.

Trịnh Tráng lên nối nghiệp làm chúa. Nhưng vì đảng Trịnh Xuân còn làm loạn, cho nên mới đưa vua về Thanh Hóa. Vua phong cho Trịnh Tráng làm Thái Úy Thanh Quốc Công, tiết chế thủy bộ chư quân.

Bấy giờ có Mạc Kính Khoan là cháu Mạc Kính Cung xưng làm Khánh Vương ở đất Thái Nguyên. Trước đã bị quân họ Trịnh đánh phá mấy trận, phải lên ẩn núp ở đất Cao Bằng, nay thâ"y người nhà họ Trịnh làm loạn, lại đem quân vào đóng ở làng Thổ Khối, huyện Gia Lâm. Nhưng chẳng bao lâu Trịnh Tráng ở Thanh Hóa ra đánh. Kính Khoan lại phải chạy về Cao Bằng.

Trịnh Tráng dẹp yên đất Đông Đô, lại vào rước vua ra, và tự xưng làm Nguyên Súy, Thống Quốc Chính Thanh Đô Vương, rồi sai con là Trịnh Kiều đem quân lên đánh Cao Bằng (ất sửu 1625) bắt được Mạc Kính Cung đem về giết đi. Mạc Kính Khoan thì chạy sang Tàu, rồi cho người về dâng biểu xin hàng.

Triều đình phong cho Kính Khoan làm Thái Úy Thông Quốc Công, và cho giữ đất Cao Bằng theo lệ cống tiến.

2. Nhà Thanh Dấy Nghiệp.

Khi Trịnh Tráng ở An Nam ta mới lên nối nghiệp làm chúa và đang phải đánh dẹp họ Mạc ở đất Cao Bằng, thì ở bên Tàu nhà Minh mất nước.

Nguyên ở xứ đông bắc nước Tàu có một xứ gọi là Mãn Châu, có giống người Nữ Chân ở. Về đời nhà Tống người Nữ Chân đã lập nên một nước lớn gọi là Kim, xưng đế được 120 năm, rồi bị nhà Nguyên lấy mất. Nhà Nguyên đặt Vạn Hộ Phủ để cai trị đất Mãn Châu.

Sau nhà Minh dứt được nhà Nguyên, tuy ở Mãn Châu nhà Minh có đặt vệ địa, nhưng mà người xứ ấy vẫn tự cai trị lấy.

Đất Mãn Châu bấy giờ chia làm bốn bộ:

1. Mãn Châu Bộ (thuộc về Kiến Châu Vệ Địa) 2. Trường Bạch Bộ (thuộc về Kiến Châu Vệ Địa) 3. Đông Hải Bộ (thuộc về Dạ Nhân Vệ Địa) 4. Hỗ Luân Bộ (thuộc về Hải Tây Vệ Địa)

Về cuối đời nhà Minh, ở Trường Bạch Bộ có một người tên là Nỗ Nhĩ Cấp Xích, tức là vua Thái Tổ nhà Thanh, đánh lấy tất cả đất bốn bộ, đóng kinh đô ở Thẩm Dương, là Thịnh Kinh bây giờ.

Nỗ Nhĩ Cáp Xích mất, con lên nối nghiệp tức là Thanh Thái Tông. Sau nhân được cái Truyền Quốc Tỉ của nước Tàu, Thái Tông mới cải quốc hiệu là Đại Thanh.

Con Thái Tông tên là Phúc Lâm lên làm vua, tức là Thanh Thế Tổ, đánh lấy được cả đất Liêu Tây của nhà Minh.

Khi tướng nhà Minh là Ngô Tam Quế đang chống với quân nhà Thanh ở Sơn Hải Quan thì Lý Tự Thành nổi lên vây đánh Yên Kinh. Vua Trang Liệt nhà Minh gọi Ngô Tam Quế về cứu, nhưng về đến nửa đường, Tam Quế được tin Yên Kinh đã thất thủ, Trang Liệt Đế và Hoàng Hậu đã bị giết, Tam Quế lại trở về Sơn Hải Quan.

Lý Tự Thành cho người gọi Tam Quế về hàng, Tam Quế không về. Tự Thành đem quân đến đánh Sơn Hải Quan. Tam Quế xin hàng nhà Thanh để lấy binh về đánh Tự Thành.

Lý Tự Thành đánh thua, phải bỏ Yên Kinh mà chạy, quân nhà Thanh vào giữ Yên Kinh rồi dời kinh sư về đó.

Các quân cựu thần nhà Minh lập Phúc Vương lên làm vua ở Nam Kinh, nhưng sau vì các tướng không hòa với nhau, Phúc Vương phải ra hàng.

Phúc Vương hàng Thanh rồi, Đường Vương xưng đế ở Phúc Châu, chẳng bao lâu cũng bị bắt, phải nhịn ăn mà chết.

Dòng dõi nhà Minh là Quế Vương xưng đế ở đất Triệu Khánh (thuộc tỉnh Quảng Tây) được mấy năm, bị quân nhà Thanh đến đánh, phải chạy sang Diến Điện. Vua Diến Điện bắt Quế Vương nộp cho Ngô Tam Quế. Tam Quế đem giết đi. Từ đấy nhà Thanh nhất thống nước Tàu.

Khi Quế vương xưng đế ở đất Quảng Tây, có ý muốn nhờ An Nam cứu viện, cho nên mới phong cho vua Thần Tông nhà Lê làm An Nam Quốc Vương và phong Trịnh Tráng làm phó vương.

Khi ấy ở phía bắc nước Tàu đang loạn, họ Mạc thì đã về hàng, Trịnh Tráng mới nhân dịp quyết ý đi đánh họ Nguyễn ở phía nam.

3. Tình Thế Họ Nguyễn ở Miền Nam.

Từ khi Nguyễn Hoàng về Thuận Hóa rồi, bề ngoài tuy vẫn chưa ra mặt chống với họ Trịnh, nhưng bề trong thì hết sức lo sợ phòng bị. Xem như năm quý sửu (1613), khi Nguyễn Hoàng sắp mất, gọi người con thứ 6 là Nguyễn Phúc Nguyên vào dặn rằng: "Đất Thuận, Quảng này bên bắc thì có núi Hoàng Sơn, sông Linh Giang, bên nam thì có núi Hải Vân và núi Bi Sơn thật là một nơi trời để cho người anh hùng dụng võ. Vậy ta phải thương yêu nhân dân, luyện tập quân sĩ để mà gây dựng cơ nghiệp về muôn đời." Xem lời ấy thì biết họ Nguyễn đã có ý muốn độc lập để chống với họ Trịnh.

Khi ở ngoài Bắc, Trịnh Tùng mất, chúa Sãi là ông Nguyễn Phúc Nguyên bảo các quan rằng: "Ta muốn nhân dịp này mà ra đánh họ Trịnh, nhưng hiềm vì công việc chưa xong, vậy thì hãy sai người ra phúng điếu, trước là cho phải cái nghĩa hôn nhân với nhau, sau là nhân thể xem tình ý ngoài Bắc ra thế nào."

Bấy giờ ở miền Nam lại có những người tôi giỏi giúp rập như các ông Nguyễn Hữu Dật, ông Đào Duy Từ, và ông Nguyễn Hữu Tiến đều là người có tài trí cả.

Nguyễn Hữu Dật là người làng Gia Miêu, huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa, học rộng, tài cao, và lại có tài hùng biện, đánh giặc giỏi, thật là một bậc văn võ kiêm toàn.

Đào Duy Từ là người làng Hoa Trai, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa. Vì ông là con nhà xướng hát cho nên không được đi thi, ông phẫn trí mới đi vào miền Nam tìm đường lập công, nhưng chưa gặp được người tiến cử cho, bèn vào ở chăn trâu cho một nhà phú gia ở làng Tùng Châu, phủ Hoài Nhân (nay là Bình Định). Ông làm bài "Ngọa Long Cương" để tự ví mình với ông Gia Cát Lượng. Sau có quan Khâm Lý là Trần Đức Hòa biết Duy Từ là người có tài, đem về nuôi, và gả con gái cho, rồi đưa dâng chúa Sãi. Chúa dùng làm Nội tán, phong làm Lộc Khê Hầu 100 .

Nguyễn Hữu Tiến cũng là người Thanh Hóa, làng Vân Trai, huyện Ngọc Sơn, võ nghệ tinh thông, dùng binh rất có kỷ luật, thật là một người làm tướng có tài vậy.

Những người ấy giúp chúa Nguyễn, bày mưu định kế, luyện tập quân lính, xây đồn đắp lũy để chống với quân họ Trịnh 101 .

Khi những đồn lũy đã kiên cố, binh lương đã đủ rồi, chúa Sãi mới ra mặt không thần phục họ Trịnh nữa, và sai tướng ra chiếm giữ lấy đất Nam Bố Chính là đất ở phía nam sông Linh Giang để làm chỗ chống giữ. Từ đó họ Trịnh và họ Nguyễn đánh nhau tai hại trong khoảng 45 năm ở đất Quảng Bình, Hà Tĩnh bây giờ.

4. Đánh Nhau Lần Thứ Nhất.

Năm đinh mão (1627) nhân khi nhà Minh bên Tàu còn đang chống nhau với nhà Thanh, và họ Mạc ở Cao Bằng thì về hàng, Trịnh Tráng mới sai quan vào Thuận Hóa giả tiếng nhà vua sai vào đòi tiền thuế từ ba năm về trước.

Tờ sắc làm bằng chữ nôm như sau này:

"Hoàng thượng sắc dụ cho Thái bảo Thụy quốc công là Nguyễn Phúc Nguyên được biết rằng: Mệnh lệnh triều đình, Đạo làm tôi phải nên tuân thủ; Thuế má phủ huyện, Tướng ngoài cõi không được tư chuyên. Trước đây trẫm có sai Công bộ thượng thư là Nguyễn Duy Thì, Bá Khê Hầu là Phan Văn Trị vào Thuận Hóa, đạo đạt tình ý, chỉ bảo đường họa phúc, để cho tỉnh biết mà phục tùng quyền chính triều đình. Không ngờ nhà ngươi mang lòng dùng dằng, tối đường tới lui, nói thoái thác cho lôi thôi ngày tháng, để đến nỗi thuế má thiếu thốn, không đủ việc chi thu, đạo làm tôi như thế đã phải chưa? Nhà ngươi nay nên đổi lỗi trước, giữ gìn phép tắc. Phàm ngạch thuế trong hai xứ Thuận, Quảng, từ năm quý hợi về trước, có

100

Đào Duy Từ giúp chúa Sãi được 8 năm thì mất, thọ 63 tuổi. 101

Đào Duy Từ lập đồn Trường Dục ở huyện Phong Lộc (Quảng Bình). Và xây cái lũy dài ở cửa Nhật Lệ (cửa Đồng Hới) tức là cái Trường thành ở Quảng Bình bây giờ. Người ta thường gọi lũy ấy là lũy Thầy, nghĩa là lũy của Đào Duy Từ đắp ra. phải đã mất mùa thì xá cả cho; còn từ năm giáp tí đến nay phải tính cho đủ số theo lệ trước, tải thuyền đem ra nộp cho đủ; và phải chỉnh tề binh mã, hoặt thân đến kinh đô triều hạ, hoặc phải sai con đi thay, để coi xem nghi vệ trong nước, và để tỏ giãi tấm lòng làm tôi. Nếu thế thì triều đình sẽ phong thêm cho chức tước vinh hiển, để rạng tỏ đến tổ tông. Nhược bằng thoái thác không đến, thì tức là phạm tội với triều đình.

Khâm tai dụ sắc!"

Chúa Sãi tiếp sứ nhưng không chịu nộp thuế. Trịnh Tráng lại sai sứ mang sắc vua Lê vào dụ chúa Sãi cho con ra chầu, và lấy 30 con voi cùng 30 chiếc thuyền để đưa đi cống nhà Minh. Chúa Sãi không chịu.

Trịnh Tráng thấy vậy, bèn quyết ý đánh họ Nguyễn, sai Nguyễn Khải và Nguyễn Danh Thế đem 5.000 quân đi làm tiên phong vào đóng ở xã Hà Trung (tục gọi là Cầu Doanh), rồi đem đại binh, rước vua Lê đi đánh mặt Nam.

Chúa Sãi sai cháu là Nguyễn Phúc Vệ làm tiết chế cùng với Nguyễn Hữu Dật đem binh mã ra giữ các nơi hiểm yếu. Quân họ Trịnh đến đánh, chết hại rất nhiều. Bọn Nguyễn Hữu Dật lại đặt ra một kế khiến cho quân Trịnh phải rút về, sai người đi nói phao ra rằng ở ngoài Bắc có Trịnh Gia và Trịnh Nhạc sắp làm loạn.

Trịnh Tráng nghe tin ấy trong bụng sinh nghi, không biết thực hư thế nào, bèn rước vua và rút quân về Bắc.

5. Đánh Nhau Lần Thứ Hai.

Năm canh ngọ (1630) chúa Sãi nghe lời Đào Duy Từ, sai người đem sắc dụ ra trả vua Lê, rồi sai tướng đánh lấy phía nam ngạn sông Linh Giang để chống với quân họ Trịnh. Đến năm quý dậu (1633) nhân khi chúa Sãi có người con thứ ba tên là Ánh, trấn thủ ở đất Quảng Nam, có ý muốn tranh quyền, bèn sai người đưa thư ra Thăng Long xin chúa Trịnh đem quân vào đánh bắn súng làm hiệu, thì sẽ làm nội ứng. Ánh lại xin chúa Sãi cho ra Trấn thủ đất Quảng Bình để cho tiện làm mưu gian, nhưng chúa Sãi có lòng ngờ, không cho.

Khi Trịnh Tráng được cái thư của ngươi Ánh gửi ra, liền đem đại binh vào đóng ở cửa Nhật Lệ (cửa Đồng Hới).

Chúa Nguyễn sai Nguyễn Vân Thắng và Nguyễn Hữu Dật đem quân ra chống giữ.

Quân Họ Trịnh đến đợi hơn 10 ngày, không thấy tin tức gì của ngươi Ánh, bèn lui quân ra để chờ.

Quân lính đợi lâu thành ra lười biếng, quân họ Nguyễn mới xuất kỳ bất ý, đổ ra đánh đuổi.

Trịnh Tráng thấy sự không thành, rút quân về.

6. Đánh Nhau Lần Thứ Ba.

Năm ất hợi (1635) chúa Sãi là Nguyễn Phúc Nguyên mất, con là Nguyễn Phúc Lan lên nối nghiệp làm chúa, gọi là chúa Thượng.

Lúc ấy ngươi Ánh ở Quảng Nam nghe tin chúa Sãi mất rồi, anh lên nối nghiệp, bèn phát binh làm phản - Bấy giờ có Nguyễn Phúc Khê giúp chúa Thượng, sai quân vào đánh bắt được ngươi Ánh, lấy nghĩa "Anh em là tình riêng, phép nước là nghĩa lớn" đem giết đi.

Trịnh Tráng thấy anh em họ Nguyễn tranh nhau, sai tướng vào đánh đất Nam Bố Chính, giết được tướng họ Nguyễn là Bùi Công Thắng rồi tiến lên đóng ở cửa Nhật Lệ.

Đến năm quý tị (1643) Trịnh Tráng đem đại binh và rước vua Lê vào đất Bắc Bố Chính. Nhưng bấy giờ đang tiết tháng tư, khí trời nóng lắm, quân sĩ chết hại rất nhiều, Trịnh Tráng phải rút về Bắc.

7. Đánh Nhau Lần Thứ Tư.

Năm mậu tí (1648) Trịnh Tráng sai đô đốc Tiến Quận Công Lê Văn Hiểu 102

đem quân thủy bộ vào đánh miền Nam; bộ binh tiến lên đóng ở đất Nam Bố Chính; còn thủy quân thì vào đánh cửa Nhật Lệ.

Bấy giờ có hai cha con Trương Phúc Phấn cố sức giữ lũy Trường Dục, quân họ Trịnh đánh mã không tiến lên được.

Chúa Nguyễn sai con là Nguyễn Phúc Tần đem binh ra chống giữ với họ Trịnh, khi ra đến Quảng Bình, Nguyễn Phúc Tần hội các tướng lại bàn rằng: "Quân kia tuy nhiều, nhưng người đánh giỏi thì ít. Nếu đến đêm, ta cho voi xông vào rồi đem đại quân đến đánh là chắc phá được". Đoạn rồi, một mặt cho thủy quân đi phục sẳn ở sông Cẩm La để chặn đường quân Trịnh chạy về; một mặt sai Nguyễn Hữu Tiến đem 100 con voi đến canh năm xông vào trại quân Trịnh, quân bộ tiếp sau vào đánh phá. Quả nhiên quân

102

Có nơi chép là Trịnh Đào hay là Hàn Tiến. Trịnh thua to chạy về Bắc, lại gặp quân thủy của họ Nguyễn đón đường đuổi đánh mãi đến sông Lam Giang mới thôi.

Trận ấy quân họ Nguyễn bắt được mấy người tướng và 3.000 quân của họ Trịnh.

Trịnh Tráng thấy quân mình thua, sai Lê Văn Hiểu cùng với Trần Ngọc Hậu lĩnh một vạn quân đóng ở Hà Trung, Lê Hữu Đức cùng với Vũ Lương đóng ở Hoàng Sơn, Phạm Tất Toàn đóng ở đất Bắc Bố Chính để phòng giữ quân họ Nguyễn.

Lúc bấy giờ ở trong Nam thì chúa Thượng mất, truyền nghiệp chúa lại cho con là Nguyễn Phúc Tần, gọi là chúa Hiền. Ở ngoài Bắc thì vua Chân Tông mất, không có con, Trịnh Tráng lại rước Thần Tông, Thái Thượng Hoàng, về làm vua lần nữa.

Họ Trịnh vào đánh họ Nguyễn đã mấy phen, đánh phen nào thì hao binh tổn tướng phen ấy, thế mà vẫn không chịu thôi việc chiến tranh. Đến năm ất tị (1655) quân nhà Trịnh lại vào đánh đất Nam Bố Chính. Bấy giờ chúa Hiền mới quyết ý đem quân ra đánh họ Trịnh.

8. Đánh Nhau Lần Thứ Năm.

Tháng tư năm ất tị (1655) chúa Hiền sai Thuận Nghĩa Hầu là Nguyễn Hữu Tiến, Chiêu Vũ Hầu là Nguyễn Hữu Dật đem quân qua sông Linh Giang ra đánh đất Bắc Bố Chính, tướng họ Trịnh là Phạm Tất Toàn về hàng.

Quân nhà Nguyễn tiến lên đến Hoành Sơn, gặp quân của Lê Hữu Đức, đánh đuổi một trận, rồi thừa thắng đánh đến đồn Hà Trung, Lê Văn Hiểu chống không nổi, phải cùng với Lê Hữu Đức rút quân về giữ An Trường (tức là thành Nghệ An bây giờ).

Nguyễn Hữu Tiến đem binh đến đóng ở huyện Thạch Hà, Lê Văn Hiểu và Lê Hữu Đức lại sang đóng ở xã Đại Nại.

Trịnh Tráng thấy bọn Lê Văn Hiểu binh bại ở Hà Trung, bèn cho sứ vào triệu về kinh, và sai Trịnh Trượng vào làm Thống lĩnh, kinh lược đất Nghệ An.

Lê Văn Hiểu bị đạn ở chân, về đến nửa đường thì chết; còn bọn Lê Hữu Đức, Vữ Lương đều phải giáng chức cả.

Trịnh Trượng tiến binh lên đến huyện Kỳ Hoa, cho thủy binh vào đóng ở cửa Kỳ La.

Nguyễn Hữu Tiến thấy quân họ Trịnh đã tiến, bèn rút quân về sông Linh Giang để nhử quân nghịch. Nhưng mà Trịnh Trượng thấy tự nhiên quân Nguyễn bỏ về như vậy, sợ có mưu kế gì, không dám đuổi, bèn đóng quân ở lại Lạc Xuyên, rồi cho 500 người vào đóng ở đồn Hà Trung.

Nguyễn Hữu Tiến thấy quân họ Trịnh không đuổi, bèn đem quân đến đánh quân Trịnh ở Lạc Xuyên; còn Nguyễn Hữu Dật thì đem thủy binh ra đánh cửa Kỳ La, đuổi chiến thuyền của họ Trịnh về cửa Châu Nhai.

Nguyễn Hữu Tiến và Nguyễn Hữu Dật thừa thắng tiến binh lên đánh quân họ Trịnh, rồi chiếm giữ lấy đồn Lạc Xuyên. Binh tướng họ Trịnh phải chạy về An Tràng.

Bấy giờ những huyện ở phía nam sông Lam Giang (tức là sông Cả bây giờ) là huyện Kỳ Hoa, huyện Thạch Hà, huyện Thiên Lộc, huyện Nghi Xuân, huyện La Sơn, huyện Hương Sơn, huyện Thanh Chương, cả thảy là bảy huyện đều thuộc về họ Nguyễn cả.

Tin quân Trịnh thua ở Lạc Xuyên ra đến Thăng Long, Trịnh Tráng giáng Trịnh Trượng xuống làm đô đốc, rồi sai con là Trịnh Tạc vào Nghệ An làm Thống lĩnh để chống giữ với quân họ Nguyễn.

Bọn Nguyễn Hữu Tiến thấy quân Trịnh Tạc lại tiến, liền lui quân về đóng ở Hà Trung để giữ trận thế. Nhưng bây giờ ở ngoài Bắc lắm việc, Trịnh Tráng phải gọi Trịnh Tạc về, để tướng là Đào Quang Nhiêu ở lại trấn thủ đất Nghệ An, đóng ở An Tràng, sai Thân Văn Quang, Mẫn Văn Liên đóng ở làng Tiếp Vũ (thuộc huyện Thiên Lộc), thủy quân đóng ở sông Khu Độc (thuộc huyện Nghi Xuân).

Qua năm bính thân (1656) quân họ Nguyễn đến đánh đồn Tiếp Vũ, bọn Thân Văn Quang bỏ chạy, Nguyễn Hữu Tiến đem quân đến đóng ở sông Tam Chế. Còn Nguyễn Hữu Dật tiến binh đến núi Hồng Lĩnh, gặp quân họ Trịnh đánh đuổi đến đất Mẫn Tường, rồi lại gặp thủy binh củaVũ Văn Thiêm, đánh phá một trận, Văn Thiêm thua chạy. Quân họ Nguyễn thừa thắng tiến lên đến làng Minh Lương và lành Bình Lạng gặp quân của Đào Quang Nhiêu, hai bên đánh nhau một trận rất dữ. Đào Quang Nhiêu thua chạy về An Tràng, dâng biểu tạ tội và xin viện binh.

Trịnh Tráng sai người con út là Ninh Quận Công Trịnh Toàn (tục hay gọi là ông Ninh) vào làm thống lĩnh trấn thủ đất Nghệ An.

Trịnh Toàn vào đến Nghệ An, đốc chư quân tiến lên đến Thạch Hà, sai Đào Quang Nhiêu và Dương Hồ đem binh đến đóng ở làng Hương Bộc và ở làng Đại Nại, sai Lê Sĩ Hậu, Bùi Sĩ Lương đem thủy quân đến đóng ở Nam Giới, và sai Vũ Văn Thiêm đem thủy quân đến đóng ở Châu Nhau.

Nguyễn Hữu Tiến thấy quân họ Trịnh cử động như vậy, bèn sai bọn Dương Trí, Tống Phúc Khang cùng với Nguyễn Hữu Dật đem thủy bộ quân đến đánh quân Trịnh ở Nam giới, lấy được hơn 30 chiếc thuyền, rồi tràn xuống sông Lam Giang đánh Vũ Văn Thiêm ở Châu Nhai, Vũ Văn Thiêm phải bỏ thuyền mà chạy.

Trịnh Toàn thấy các đạo thủy binh của mình đã thua, bèn rút về đóng ở bến Hoạt, bỗng nghe tin toán quân của Đào Quang Nhiêu bị vây ở Hương bộc, lập tức đem quân đến cứu, hai bên đánh nhau ở làng Đại Nại, quân họ Nguyễn chạy về Hà Trung. Trịnh Toàn và Đào Quang Nhiêu đem quân đuổi đến Tam Lộng, bị quân của Nguyễn Hữu Tiến và Nguyễn Hữu Dật đón đường đánh phá. Trịnh Toàn lại thua, phải chạy về An Tràng.

Trịnh Toàn từ khi vào trấn thủ đất Nghệ An, hậu đãi tướng sĩ, yêu mến quân dân, lòng người đều phục; nhưng chẳng được bao lâu, Trịnh Tráng mất, Trịnh Tạc lên thay, thấy em có nhiều người mến phục, lấy làm nghi kỵ, bèn cho con là Trịnh Căn vào cùng trấn đất Nghệ An, có ý giữ để cho khỏi biến loạn. Đoạn rồi cho người vào đòi Trịnh Toàn về kinh, trách sao không về chịu tang, bắt bỏ ngục giam chết.

Binh quyền ở Nghệ An giao lại cho Trịnh Căn. Đến tháng sáu năm đinh sửu (16570 Trịnh Căn chia quân làm 3 đạo, sai Lê Hiến làm tướng trung quân, sai Hoàng Nghĩa Giao làm tướng tả quân, sai Trịnh Thế Công làm tướng hữu quân, sang sông Lam Giang rồi tiến lên đánh tướng nhà Nguyễn là Tống Hữu Đại ở làng Nam Hoa (thuộc huyện Thanh Chương).

Nhưng vì có người báo trước, bọn Nguyễn Hữu Tiến đã phòng bị cả, đến khi quân Trịnh đến, thì mắc kế phải thua, may nhờ có quân Trịnh Căn tiếp ứng, cho nên mới rút về được.

Từ đó quân hai bên cứ giữ nhau ở sông Lam Giang, thỉnh thoảng đánh nhau một trận, như tháng chạp năm mậu tuất (1658), đánh ở làng Tuần Lễ (huyện Hương Sơn), quân họ Nguyễn phải lùi; đến tháng tám năm canh tí (1660) đánh ở Nghi Xuân, quân họ Trịnh thua bỏ thuyền mà chạy; qua tháng 9 năm ấy đang khi quân họ Nguyễn còn đóng ở làng Hoa Viên (tức là làng Xuân Viên bây giờ), Trịnh Căn định sang lấy núi Lận Sơn để giữ trận thế, bèn sai Hoàng Nghĩa Giao và Phan Kiêm Toàn đem binh sang ssông Lam Giang ở làng Âm Công, và sai Lê Hiến 103

đi xuống phía Hội Thống rồi sang sông, chờ đến nửa đem thì hai đạo cùng tiến cả.

Đạo quân của Đào Nghĩa Giao đi đến Lận Sơn bị quân của Nguyễn Hữu Dật đánh và vây ngặt lắm. Bấy giờ Trịnh Căn đứng thị chiến trên núi Quyết Dũng (ở gần Bến Thủy bây giờ), trông thấy quân mình bị vây nguy cấp lắm, liền sai quân sang cứu, và truyền cho thủy quân đến bờ sông mà bắn lên, quân họ Nguyễn phải lùi.

Còn đạo quân của Lê Hiến và Mẫn Văn Liên sang đến làng Tả Ao gặp quân họ Nguyễn, hai bên đánh nhau, Mẫn Văn Liên tử trận, nhưng quân họ Nguyễn phải bỏ Hoa Viên lui về đóng ở Nghi Xuân.

Lúc ấy đại quân của Nguyễn Hữu Tiến đóng ở Nghi Xuân, còn Nguyễn Hữu Dật thì đóng ở Khu Đốc. Chúa Hiền cũng đem binh đến tiếp ứng, đóng ở làng Phù Lộ (nay là làng Phù An thuộc huyện Bình Chính, Quảng Bình). Nguyễn Hữu Dật lẻn về ra mắt chúa Hiền, kể đầu đuôi mọi việc đánh lấy thế nào, chúa Hiền mừng lắm, cho Hữu Dật một thanh bảo kiếm bằng vàng và lại sai trở lại đánh giặc.

Nguyễn Hữu Tiến biết việc ấy, trong bụng lấy làm không bằng lòng, và bấy giờ lại nhân có những sĩ tốt mới hàng ở đất Nghệ An, thường hay bỏ trốn, Hữu Tiến bèn hội chư tướng lại để bànx em nên đánh hay là nên lui về. Mọi người đều muốn lui về, duy chỉ có Nguyễn Hữu Dật không chịu.

Khi các tướng họ Nguyễn đang bàn bạc, thì có tin rằng Trịnh Căn sai bọn Lê Hiến đi men bờ bể đến làng Cương Gián, bọn Hoàng Nghĩa Giao đến làng Lũng Trâu và làng Mãn Trưởng, rồi tiến lên đánh ở làng An Điền và ở làng Phù Lưu; quân họ Nguyễn thua. Được tin ấy Nguyễn Hữu Tiến quyết ý đem quân về, nhưng bề ngoài giả tảng truyền lện cho các tướng rằng đến tối 28 thì các đạo đều phải tiến sang đánh An Tràng, Nguyễn Hữu Dật đem binh đi hậu tiếp. Đoạn rồi, dặn riêng các tướng đến nữa đêm rút quân về Nam Bố Chính, không cho Nguyễn Hữu Dật biết. Nguyễn Hữu Dật sắm sửa đâu vào đấy, chờ mãi không có tin tức gì, đến khi cho người đi thámvề nói mới biết quân mình đã rút về Nam rồi. Lúc ấy quân họ Trịnh đã sang sông đến đánh đồn Khu Độc. Hữu Dật mới dùng kế nghi binh để cho quân Trịnh không dám tiến lên, rồi đem binh chạy về, đến Hoành sơn mới gặp quân của Nguyễn Hữu Tiến. Bấy giờ quân Trịnh Căn vừa đuổi đến, hai bên đánh nhau một trận chết hại rất nhiều.

103

Có sách chép là Lê Thời Hiến.

Trịnh Căn lui về đóng ở Kỳ Hoa. Còn bên kia Nguyễn Hữu Tiến đóng ở Nhật Lệ. Nguyễn Hữu Dật đóng ở Đông Cao, giữ các chỗ hiểm yếu. Từ bấy giờ 7 huyện ở vùng sông Lam Giang lại thuộc về đất Bắc.

Trịnh Căn thấy quân họ Nguyễn giữ gìn mọi nơi chắc chắn lắm, liệu thế đánh không được, bèn sai Đào Quang Nhiêu ở lại trấn thủ đất Nghệ An và kiêm lĩnh cả đất Bắc Bố Chính để phòng giữ mọi nơi, rồi về Thăng Long.

9. Đánh Nhau Lần Thứ Sáu.

Đến tháng 10 năm tân sửu (1661) Trịnh Tạc cử đại binh và đem vua Lê vào đánh chúa Nguyễn: sai Trịnh Căn làm thống lĩnh, Đào Quang Nhiêu làm Tổng suất, Lê Hiếu và Hoàng Nghĩa Giao làm Đốc suất, Lê Sĩ Triệt và Trịnh Tế làm Đốc thị, đem binh sang sông Linh Giang rồi đến đóng ở làng Phúc Tự.

Quan Trấn thủ Nam Bố Chính của họ Nguyễn là Nguyễn Hữu Dật đóng ở làng Phúc Lộc chia quân ra đắp lũy, giữ vững mọi nơi, quân Trịnh đánh mãi mấy tháng không được.

Đến tháng 3 năm nhâm dần (1662), quân mệt, lương hết, Trịnh Tạc phải thu quân và rước vua về Bắc. Nguyễn Hữu Dật đem binh đuổi đánh đến sông Linh Giang mới thôi.

Năm ấy Thần Tông về rồi đến tháng 9 thì mất. Trịnh Tạc lập Thái tử là Duy Vũ lên làm vua tức là vua Huyền Tông. Huyền Tông làm vua được 8 năm thì mất. Trịnh Tạc lại lập Hoàng Đệ là Duy Hội lên làm vua, tức là vua Gia Tông.

10. Đánh Nhau Lần Thứ Bảy.

Từ năm tân sửu (1661) quân họ Trịnh thua ở đất Bắc Bố Chính rồi, Trịnh Tạc về phải lo việc nước và phải đánh dẹp họ Mạc ở đất Cao Bằng, cho nên không dòm ngó đến phía Nam; mãi đế năm nhâm tí (1672) Trịnh Tạc lại đem mấy vạn quân và rước vua Gia Tông và đất Bắc Bố Chính để đánh họ Nguyễn, sai Trịnh Căn làm thủy quân Nguyên Súy, Lê Hiến làm bộ quân Thống suất.

Chúa Hiền cũng sai em thứ tư là Hiệp làm Nguyên Súy đem binh ra cùng Nguyễn Hữu Dật và Nguyễn Mỹ Đức giữ các nơi hiểm yếu để ngự địch, chúa Hiền đem đại binh đi tiếp ứng.

Quân họ Trịnh đến đánh lũy Trấn Ninh rất hăng, đã hai ba phen sắp phá được lũy, nhưng Nguyễn Hữu Dật hết sức chống giữ, quân Trịnh đánh mãi không được, phải lùi về Bắc Bố Chính. Đến tháng chạp, trời mưa rét và lại nghe tin rằng Trịnh Căn đi đến Linh Giang phải bệnh nặng, Trịnh Tạc bèn sai Lê Hiến ở lại trấn thủ Nghệ An, Lê Sĩ Triệt làm Đô Đốc đóng ở Hà Trung để giữ các nơi yếu lộ, lấy sông Linh Giang, tức là sông Giang bây giờ mà phân giới hạn Nam Bắc, rồi rút quân về Thăng Long.

Từ đó Năm Bắc thôi việc chiến tranh, mãi đến khi Tây Sơn khởi binh, thì họ Trịnh mới nhân dịp vào đánh lấy đất Thuận Hóa.

Kể từ năm đinh mão (1627) đời vua Thần Tông lần thứ nhất, đến năm nhâm tí (1672) đời vua Gia Tông, vừa 45 năm, họ Trịnh, họ Nguyễn đánh nhau cả thảy 7 lần. Trong bấy nhiêu lần, họ Nguyễn chỉ ra đánh họ Trịnh có một lần, đã lấy được 7 huyện ở phía nam sông Lam Giang, nhưng vì các tướng họ Nguyễn không đồng lòng với nhau, cho nên lại phải bỏ về giữ đất cũ.

Còn như thế lực binh lương thì họ Trịnh mạnh hơn họ Nguyễn, nhưng người Bắc phải đi đánh xa xôi, vận tải khó khăn, mà người Nam thì đánh ở đất nhà mình, có đồn lũy chắc chắn, tướng sĩ hết lòng, cho nên thành ra hai bên đối địch chứ không làm gì được nhau, chỉ khổ cho những dân sự, phải sưu dịch vất vả, và bị tàn phá thiệt hại rất nhiều.

CHƯƠNG V

Công Việc Họ Trịnh Làm ở Đất Bắc

1. Việc giao thiệp với nhà Thanh 2. Việc lấy đất Cao Bằng của họ Mạc 3. Quan chế 4. Việc binh chế 5. Hình luật 6. Thuế đinh, thuế điền và sưu dịch 7. Các thứ thuế 8. Sổ chi thu 9. Việc khai mỏ 10. Việc đúc tiền 11. Sự đong lường 12. Việc in sách 13. Việc học hành thi cử 14. Trường học võ 15. Làm quốc sử 16. Sự đánh dẹp giặc giã trong nước: Giặc Ngân già; Giặc Ninh xa: Nguyễn hữu Cầu; Nguyễn danh Phương; Hoàng công Chất; Lê duy Mật

1. Việc Giao Thiệp Với Nhà Thanh.

Năm quý mão (1663), lúc ấy nhà Minh đã mất rồi, vua nhà Thanh có cho sứ sang dụ vua An Nam về triều cống. Bấy giờ Trịnh Tạc mới cho sứ đem đồ cống lệ sang Yên Kinh (tức là Bắc Kinh) để cầu phong cho vua Lê. Đến năm đinh mùi (1667) vua Khang Hy nhà Thanh sai sứ sang phong cho vua Lê làm An Nam Quốc Vương. Từ đó hai nước thông sứ với nhau như thường. Về sau dẫu có lôi thôi về những việc giặc cướp và việc giới hạn ở phía thượng du, nhưng bao giờ vua nhà Thanh cũng chủ lấy sự hòa bình, cho nên việc gì cũng trang trải xong xuôi.

2. Việc Lấy Đất Cao Bằng của Nhà Mạc.

Năm ất sửu (1625) Mạc Kính Khoan đã xin về hàng, được phong làm Thái Úy Thông Quốc Công, cho giữ đất Cao Bằng. Song đến năm mậu dần (1638) Kính Khoan mất, con là Mạc Kính Vũ (có chỗ gọi là Mạc Kính Hoàn) không nhận chức và không chịu về cống, lại tự xưng làm vua hiệu là Thuận Đức.

Từ đó họ Mạc cứ thỉnh thoảng đem quân về cướp phá ở mạn Thái Nguyên, quan quân đánh đuổi nhiều lầ, nhưng không trừ hẳn đi được.

Năm đinh tị (1667) Trịnh Tạc đem đem đại binh cùng các tướng là Đinh Văn Tả, Lê Chân, Lê Hiến lên đánh lấy đất Cao Bằng, Mạc Kính Vũ phải bỏ chạy sang Tàu. Trịnh Tạc mới treo bảng, chiêu tập dân sự về làm ăn, và đặt quan cai trị, lại sai Vũ Vinh làm đốc trấn đất Cao Bằng, Đinh Văn Tả làm trấn thủ đất Thất Tuyền (tức là Thất Khê bây giờ).

Mạc Kính Vũ ở bên Tàu, lấy vàng bạc đút lót cho quan nhà Thanh để tâu xin với Thanh Đế bắt họ Trịnh trả lại đất Cao Bằng cho họ Mạc. Thanh Đế cho Kính Vũ về ở Nam Ninh, rồi sai sứ sang thương nghị với Nam triều về việc ấy. Triều đình An Nam và sứ nhà Thanh bàn đi bàn lại mãi, sau Trịnh Tạc phải chịu trả lại cho họ Mạc đất 4 châu ở Cao bằng là châu Thạch Lâm, Quảng Uyên, Thượng Lang, Hạ Lang và triệu quan đốc trấn Vũ Vinh về.

Về sau Ngô Tam Quế phản nhà Thanh ở đất Vân Nam và đất Quảng Tây, Mạc Kính Vũ cũng về đảng với Tam Quế mà chống lại nhà Thanh. Đến khi Tam Quế chết rồi, nhà Thanh đã lấy lại đất Quảng Tây, họ Trịnh muốn nhân dịp ấy mà trừ họ Mạc cho xong, bèn một mặt sai Đinh Văn Tả và Nguyễn Hữu Đăng lên đánh Mạc Kính Vũ. Đến tháng tám năm đinh tị (1667), Đinh văn Tả lấy được thành Cao Bằng. Mạc Kính Vũ cùng họ hàng chạy sang Long Châu, bị quân nhà Thanh bắt giải sang trả cho An Nam.

Từ khi Mạc Mậu Hợp phải bắt, họ Mạc thất thủ Thăng Long rồi, con cháu chạy lên mạn ngược, nhờ thế nước Tàu được giữ đất Cao Bằng, tương truyền được 3 đời, là Mạc Kính Cung, Mạc Kính Khoan và Mạc Kính Vũ; đến nay mới mất hẳn. Dòng dõi học Mạc hoặc bị bắt, hoặc về hàng, có nhiều người được tha, cho làm quan với họ Trịnh.

3. Quan Chế.

Trước khi họ Mạc cướp ngôi nhà Lê thì quan chế vẫn theo như đời Hồng Đức, nhưng từ khi nhà Lê trung hưng về sau, chính quyền về họ Trịnh, cho nên quan chế có khác ít nhiều. Trước thì trên cùng có quan Tham tụng và quan Bồi tụng để coi việc chính trị, tức là giữ chức Tể tướng đời xưa, rồi đến các quan Thượng thư ở lục bộ.

Lục bộ là: Lại bộ coi việc thuyên chuyển các quan viên, việc thăng hàm thưởng tước, việc cách chức giáng trật, tức là coi mọi việc riêng về quan lại trong nước. Hộ bộ coi việc điền thổ và nhân dân, thuế khóa, lương tiền thu vào phát ra. Lễ bộ coi việc nghi lễ tế tự, việc học hành thi cử, việc áo mũ phẩm phục và phù ấn, việc làm chương làm biểu, việc đi sứ nước nọ nước kia, việc coi thiên văn, làm lịch, làm thuốc, bói toán, việc quan hệ tăng ni, đạo sĩ, việc âm nhạc ca xướng. Binh bộ coi các võ quan, quân lính và việc phòng bị biên giới v.v.... Hình bộ coi việc hình pháp, kiện tụng. Công bộ coi việc xây đắp thành trì, cung điện, cầu cống, đường xá, sông ngòi, rừng núi.

Đến năm mậu tuất (1718), đời vua Dụ Tông, Trịnh Cương lại đặt ra Lục phiên ở bên phủ chúa, cũng như Lục bộ ở bên nhà vua, để coi mọi việc chính trị.

Về việc võ bị thì trước có Ngũ phủ là: Trung quân phủ, Đông quân phủ, Tây quân phủ, Nam quân phủ, Bắc quân phủ. Mỗi một phủ đặt một Đô đốc phủ có quan tả hữu Đô đốc coi việc cả quân. Trong đời vua Thánh Tông, thì Thanh Hóa, Nghệ An thuộc về Trung quân; Hải Dương, An Bang thuộc về Đông quân; Sơn nam, Thuận hóa, Quảng nam thuộc về Nam quân; Tam Giang, Hưng Hóa thuộc về Tây quân; Kinh Bắc, Lạng Sơn thuộc về Bắc quân. Đến năm giáp thìn (1664) đời vua Huyền Tông, Trịnh Tạc lại đặt thêm chức Chưởng phủ sự và Thự phủ sự để coi hết thảy các quân.

Các quan chức thời bấy giờ, chia ra làm ba ban: văn ban, võ ban và giám ban. Theo thường lệ, thì chỉ có văn ban và võ ban mà thôi. Nhưng từ khi họ Trịnh giữ quyền bính và lại yêu dùng các nội giám, thường cho ra làm quan coi việc chính trị, cho nên mới đặt ra giám ban. Ban này đến cuối đời Cảnh hưng (1740-1786) mới bỏ.

Từ khi họ Trịnh cầm quyền, thì bên nhà vua gọi là Triều đình, bên phủ chúa gọi là Phủ Liêu. Phàm những việc chính trị và quân dân đều do bên phủ chúa định đoạt hết cả, cho nên người ta thường dùng Phủ liêu, chứ không mấy khi dùng chữ Triều đình, vì Triều đình chỉ có cái hư vị, chứ không có quyền gì nữa.

Sự kén chọn các quan lại thì lệ cứ mấy năm lại khảo hạch một lần, ai không xứng chức thì phải giáng xuống.

Khi nào quan viên về hưu trí thì được ăn dân lộc, như là quan nhất phẩm thì mỗi năm được 400 quan tiền dân lộc của bốn năm xã; quan nhị phẩm được 300 hoặc 250 quan của hai ba xã; quan tam phẩm được 250 hoặc 150 quan của một hai xã; quan tứ phẩm được 150 quan của một xã; quan ngũ phẩm được 100 quan của một xã.

Đời bấy giờ lại đặt ra một phép rất hay, như là cấm không cho các quan viên lập trang trại ở chỗ mình làm quan, bởi vì thường có nhiều người ỷ quyền thế mà hà hiếp lấy ruộng đất của dân, rồi nuôi những đồ gian ác làm tôi tớ, để quấy nhiễu mọi người, đến nỗi có nhiều nơi dân phải xiêu tán đi. Ấy cũng là một việc đỡ hại cho dân, và lại có thể giữ liêm cho quan vậy.

Nhưng về sau, từ đời Trịnh Giang trở đi, nhà chúa chơi bời xa xỉ, lại có nhiều giặc giã, phải tìm cách lấy tiền, đặt ra lệ cứ tứ phẩm trở xuống ai nộp 600 quan thì được thăng chức một bậc. Còn những người chân trắng mà ai nộp 2.800 quan thì được bổ tri phủ, 1.800 quan thì bổ tri huyện 104 .

Như thế, hễ ai có tiền thì được quyền trị dân, chứ không cần có tài năng gì cả, thành ra cái phẩm giá của những người làm quan đời bấy giờ cũng kém dần dần đi.

4. Việc Binh Chế.

Khi nhà Lê trung hưng ra đánh họ Mạc, số quân chỉ có hơn 56.000 người mà thôi 105 . Về sau, từ lúc đánh được nhà Mạc rồi, họ Trịnh chia ra làm hai thứ binh: một thứ gọi là ưu binh thì lấy lính ở ba phủ đất Thanh Hóa và ở bốn phủ đất Nghệ An, lệ cứ ba suất đinh lấy một tên lính; một thứ gọi là nhất binh thì lấy lính ở tứ trấn ở đất Bắc là Sơn Nam, Kinh Bắc, Hải Dương, Sơn Tây, lệ cứ 5 suất đinh lấy một tên lính.

Lính ưu binh thì đóng ở kinh thành, kén vào làm quân Túc vệ để canh giữ những nơi đền vua phủ chúa. Những lính ấy đã được cấp cho công điền, lại được thêm chức sắc.

Lính nhất binh thì chỉ để đủ giữ các trấn, và hầu hạ các quan, còn thì cho về làm ruộng, có khi nào cần dùng đến thì mới gọi, như là về đời Trịnh Doanh có lắm giặc giã, phải đánh dẹp nhiều nơi, thì mới gọi đến lính tứ trấn,

104

Việc bán phẩm hàn đã có từ đời vua Dụ Tông nhà Trần và đời vua Thánh Tông nhà Lê. Nhưng mà bấy giờ chỉ cho lấy hàm mà thôi, chứ không có thực chức. 105

Khi vua Lê Thái Tổ ra đánh nhà Minh thì số binh bấy giờ được 25 vạn, chia ra làm 5 quân, gọi là trung quân, tiền quân, hậu quân, tả quân, hữu quân. Đến khi đánh dẹp xong rồi, cho 15 vạn về làm ruộng, còn để lại 10 vạn chia ra làm 5 đạo gọi là đông đạo, tây đạo, nam đạo, bắc đạo và hải tây đạo. cả thảy được độ chừng 11.500 người, chia ra làm 20 vệ. Sau lại đổi ra làm cơ, làm đội, mỗi cơ có 200 người, để 100 người ở tại ngũ, còn 100 người cho về làm ruộng, rồi cứ lần lượt thay đổi nhà mà về.

5. Hình Luật.

Hình luật về đời ấy thì đại khái cũng như đời Tiền Lê. Hình pháp thì chia ra làm 5 thứ gọi là ngũ hình: xuy, trượng, đồ, lưu và tử. Nhưng trước thì tội gì cũng được cho chuộc cả 106 , đến đời vua Huyền Tông, Trịnh Tạc định lại: trừ những người được dự vào bát nghị 107

ra, còn ai phạm tội gì cứ chiếu theo tội nặng nhẹ mà luận hình, chứ không cho chuộc nữa.

Trước thì ai đã phải tội lưu, lại phải tội chặt tay nữa. Đến đời vua Dụ Tông, Trịnh Cương mới bỏ cái luật chặt tay và đổi lại như là ai phải chặt hai bàn tay va phải lưu đi viễn châu thì cải làm tội đồ chung thân; ai phải chặt một bàn tay và phải lưu ngoại châu thì đổi làm tội đồ 12 năm; ai phải chặt hai ngón tay trỏ và phải lưu cận châu, thì đổi làm tội đồ 6 năm. Còn như ai phạm tội trộm cướp thì không kể vào lệ ấy.

Những việc án mạng, trộm cướp và những việc hộ, hôn, điền thổ thì phải theo thứ tự mà xét xử. Như việc án mạng thì quan phủ huyện xét, rồi đệ lên để Thừa ti và hiến ti hội đồng xét lại. Việc trộm cướp, ở Kinh đô thì do quan Đề Lĩnh xét lại, ở các trấn thì do quan Trấn thủ xét lại.

Phàm những việc đại tụng tiểu tụng mà ở huyện phủ hay là ở Thừa ti, Trấn ti, xử không xong, thì đến Hiến ti xét lại. Ở Hiến ti không xong, thì đến Giám sát xét lại. Ở Giám sát và Đề Lĩnh không xong, thì đến Ngự sử Đài xét lại.

Những việc nhân mạng thì hạn cho 4 tháng, việc trộm cướp điền thổ thì 3 tháng, việc hôn nhân ẩu đả thì 2 tháng, chứ lệ không cho để lâu, làm mất công việc của dân.

6. Thuế Đinh, Thuế Điền và Sưu Dịch.

Trước tệ cứ sáu năm làm sổ hộ tịch một lần, rồi cứ tùy số dân đinh nhiều ít mà đánh thuế, gọi là "qui" đồng niên mỗi tên đinh cứ tùy hạng, hoặc đóng một quan hay là một quan tám tiền, tức là thuế thân. Đến năm kỷ dậu (1669) đời vua Huyền Tông, quan Tham Tụng là ông Phạm Công Trứ xin đặt ra phép bình lệ, nghĩa

106

Tội trượng thì cứ mỗi một trượng là quan tam phẩm phải chuộc 5 tiền, quan tứ phẩm phải chuộc 4 tiền, quan ngũ phẩm 3 tiền, quan thất bát phẩm 2 tiền, từ củu phẩm cho xuống đến thứ nhân thì 1 tiền. Tội đồ làm lính coi chuồng voi thì phải chuộc 60 quan, làm lính đồn điền thì 100 quan. Tội lưu cận châu thì phải chuộc 130 quan, viễn châu thì 290 quan. Tội tử thì phải chuộc 330 quan. 107

Đã nói ở đời vua Lê Thái Tổ. là làm sổ đinh nhất định một lần, rồi làng nào phải đóng bao nhiêu suất đinh, cứ theo như thế mà đóng mãi, chứ có đẻ thêm ra cũng không kể, mà có chết đi cũng không trừ.

Lập phép ấy là để cho dân khỏi phải làm sổ, mà quan cũng khỏi phải tra xét, nhưng phải một điều bất tiện là về sau số đinh hơn kém bao nhiêu, quan không biết được nữa. Đến năm quý tị (1713) đời vua Dụ Tông, sử chép rằng số dân nội tịch phải đóng thuế cho nhà vua cả thảy chỉ 206.315 suất mà thôi.

Còn như thuế điền thì năm kỷ hợi (1719) đời vua Dụ Tông, Trịnh Cương sai cái quan phủ huyện và quan Thừa Chính, Hiến sát làm việc đạc điền để mà chia tiền thuế cho các dân xã cho đều. Lệ bây giờ cứ đo công điền công thổ mà đánh thuế, gọi là "thuế", chia ra làm ba hạng. Hạng nhất mỗi mẫu đồng niên đóng 1 quan, hạng nhì 8 tiền, hạng ba 6 tiền.

Những sưu dịch như là việc tế tự trong đền vua phủ chúa, việc sửa sang trường thi, việc làm cầu cống, đắp đường sá, giữ đê điều v.v.... thì cứ tùy nghi mà bổ cho các suất đinh để lấy tiền mà cung ứng cho đủ.

Ấy, các thứ thuế trước đánh là vậy. Đến năm quý mão (1723), quan tham tụng là ông Nguyễn Công Hãng theo phép tô, phép dung và phép điệu của nhà Đường mà châm chước, sửa sang lại, như sau này:

Phép tô, tức là phép đánh thuế điền thổ, cứ mỗi mẫu công điền là phải nạp 8 tiền thuế, mà ruộng nào cấy hai mùa thì chia ba, quan lấy một phần thóc. Những đất bãi của quan, cứ mỗi mẫu nạp thuế 1 quan 2 tiền; chỗ nào trồng dâu thì nộp một nửa bằng tơ, chỗ nào không trồng dâu thì nộp cả bằng tiền.

Các ruộng tư điền ngày trước không đóng thuế, đến bây giờ mới đánh: ruộng hai mùa mỗi mẫu 3 tiền, ruộng một mùa mỗi mẫu 2 tiền.

Phép dung, tức là phép đánh thuế thân, cứ mỗi suất đinh là đồng niên đóng 1 quan 2 tiền. Những người sinh đồ, lão hạng và hoàng đinh 108

thì đóng một nửa.

Phép điệu, tức là phép bắt dân đóng tiền sưu dịch, cứ mỗi một suất đinh, một năm 2 mùa, mùa hạ phải đóng 6 tiền, mùa đông phải đóng 6 tiền. Quan lấy tiền ấy mà làm các việc, không phiền đến dân nữa.

108

Lão hạng là những người từ 50 tuổi đến 60 tuổi. Hoàng đinh là người mới có 17 đến 19 tuổi.

7. Các Thứ Thuế.

Đời bấy giờ đánh thuế các thứ thổ sản, thuế mỏ, thuế đò, thuế chợ, v.v.... nhưng mà những thuế ấy, khi đánh khi thôi, không có nhất định.

1. Thuế Tuần Ti: Các thuyền bè chở hàng hóa đi buôn bán ở trong sông cũng phải chịu thuế. Trong nước lập ra cả thảy 23 sở tuần ti để thu thuế; như tre gỗ thì cứ 10 phần đánh thuế một phần; những đồ tạp hóa thì 40 phần đánh thuế một phần. 2. Thuế muối: Năm tân sửu (1721) Trịnh Cương đặt quan Giám Dương để đánh thuế muối, cứ 10 phần, quan lấy 2 phần. Những người buôn muối phãi lĩnh thẻ của quan Giám dương, thì mới được mua muối, mà trước phải mua của quan đã, rồI sau mới được mua của những người làm muối. Vì đánh thuế như thế, cho nên giá muối cao đến một tiền một đấu muối, dân sự ăn uống khổ sở. Bởi vậy đến năm nhâm tí (1732) Trịnh Giang bỏ thuế muối không đánh nữa. Đến năm bính thìn (1746) Trịnh Doanh lại lập lại phép đánh thuế muối, cứ chia ra 50 mẫu ruộng muối làm một bếp, mỗi bếp phải nộp 40 hộc thuế muối, mỗi một hộc đánh giá là 180 đồng tiền, tức là ba tiền. 3. Thuế thổ sản: Năm giáp thìn (1724), Trịnh Cương định lệ đánh thuế các thổ sản, như là vàng, bạc, đồng, kẽm, sơn, diêm tiêu, than gỗ, than đá, tre, gỗ, tơ lụa, quế, cá, mắm, các đồ dụng vật như là rượu, mật, dầu, và các đồ thập vật như là giấy, chiếu, vải, v.v....

8. Sổ Chi Thu.

Về thời Trịnh Giang làm chúa, có lắm giặc giã phải chi tiêu nhiều việc, cho nên năm kỷ mùi (1731) các quan xin đặt quan để cùng với Hộ phiên mà làm sổ biên rõ đồng niên thu vào được bao nhiêu và phát ra mất bao nhiêu, để liệu sự chi dụng cho vừa.

9. Việc Khai Mỏ.

Nước ta từ đời bấy giờ ở Tuyên Quang thì có mỏ đồng ở Tụ Long, mỏ bạc ở Nam Xương và ở Long Sinh. Ở Hưng hóa thì có mỏ đồng ở Trinh Lan và Ngọc Uyển. Ở Thái Nguyên thì có mỏ đồng ở Sáng Mộc, Yên hận, Liêm tuyền, Tống sinh, Vũ nông; mỏ vàng ở Kim mã, Tam lộng; mỏ kẽm ở Cồn minh. Ở Lạng sơn thì có mỏ đồng ở Hoài viễn.

Những mỏ ấy đều là người Tàu sang khai cả, bao nhiêu quyền lợi về tay người Tàu hết, của 10 phần nhà nước không được một. Mà những phu Tàu sang làm mỏ thường hay quấy nhiễu dân sự. Tuy rằng năm đinh dậu (1717) Trịnh Cương đã định lệ rằng những người Tàu sang khai mỏ; chỗ đông lắm chỉ được đến 300 người, chỗ đông vừa 200 người, chỗ ít 100 người mà thôi. Thế mà về sau có nơi phu khách đông đến hàng vạn người, rồi sinh sự đánh nhau, thường phải dùng binh lính đi đánh dẹp mãi mới xong.

10. Việc Đúc Tiền.

Nhà Hậu Lê trung hưng lên rồi, vẫn tiêu tiền Hồng Đức, và ở trấn nào cũng có sở đúc tiền; nhưng vì có lắm sự nhũng lạm cho nên đến năm quý dậu (1753) Trịnh Doanh mới bỏ sở đúc tiền ở các trấn, mà chỉ để hai sở gần đất Kinh sư mà thôi. Đến năm bính thân (1776) đời Cảnh Hưng vua Hiến Tông, khi họ Trịnh đã lấy được đất Thuận Hóa rồi, lại mở lò đúc tiền ở Phú Xuân, đúc ra 3 vạn quan tiền Cảnh Hưng nữa.

Đời bấy giờ cũng có đúc ra bạc lạng để tiêu dùng. Mỗi một lạng là 10 đồng, mỗi đồng giá hai tiền. Bạc ấy chặt ra mà tiêu cũng được

11. Sự Đong Lường.

Sự đong lường thì trước vẫn theo lối cũ, cứ 6 hạp là một thăng, nhưng từ năm giáp thìn (1664) ông Phạm Công Trứ định lại, lấy một cái ống gọi là hoàng chung quản làm chừng. Cái ống ấy đựng được 1200 hộc thóc đen, gọi là một thược, rồi cứ 10 thược làm một hạp, 10 hạp làm một thăng, 10 thăng làm một đấu, 10 đấu là một hộc.

12. Việc In Sách.

Người nước ta học chữ Nho đã lâu mà những sách học như là Tứ Thư, Ngũ Kinh toàn thị dùng sách in của Tàu cả. Năm giáp dần (1734) đời vua Thuần Tông, Trịnh Giang mới bắt khắc bản in, in các sách phát ra mọi nơi và cấm không cho mua sách in bên Tàu nữa. Ấy cũng là một sự lợi cho sự tài chính của nước ta.

13. Việc Học Hành Thi Cử.

Sự học hành về đời Hậu Lê, thì đại khái cũng giống như đời Tiền Lê, trong nước ở đâu cũng lấy Nho học làm trọng. Ở Quốc Tử Giám thì đặt quan tế tửu và quan tư nghiệp để làm giảng quan, mỗi tháng một lần tiểu tập, ba tháng một lần đại tập.

Còn việc thi cử là việc nhà nước chọn lấy nhân tài để dùng làm việc nước, thì đời nào cũng có. Từ khi nhà Mạc và nhà Lê tranh nhau ngôi vua, Bắc Triều họ Mạc vẫn mở khoa thi ở Thăng Long; Nam triều họ Lê vì bận việc binh, cho nên đến mãi năm Canh Thìn (1580) mới mở khoa thi Hội ở Tây Đô; từ đó về sau cứ ba năm một kỳ thi Hội, nhưng mà cách thức thi cử còn sơ lược, đến năm Giáp thìn (1664) đời vua Huyền Tông, Trịnh Tạc mới định lại qui thức thi Hội.

Còn như thi Hương, thì đến năm Mậu Ngọ (1678) mới định các điều lệ rõ ràng. Từ đó cứ ba năm một kỳ thi Hương: Thanh Hóa, Nghệ An, Sơn Nam, Sơn Tây, Kinh Bắc, Hải Dương, Thái Nguyên, Hưng Hóa, Tuyên Quang, Lạng Sơn, Yên Quảng đều có trường thi cả. Nhưng mà sự thi Hương bấy giờ hồ đồ lắm, không nghiêm như đời Hồng Đức. Như là về đời vua Dụ Tông, niên hiệu Bảo Thái thì đặt lệ ai đi thi phải nộp tiền minh kinh để lấy tiền làm nhà trường và khoản đốn quan trường.

Đến năm canh ngọ (1750) đời Cảnh Hưng, nhà nước thiếu tiền, lại đặt ra lệ thu tiền thông kinh, hễ ai nộp ba quan thì dược đi, mà không phải khảo hạch. Thành ra lúc bấy giờ những người đi làm ruộng, đi bán thịt, ai cũng được nộp quyển vào thi, đến nỗi lúc vào thi, người tranh nhau vào trường xéo đạp lẫn nhau, có người chết. Vào ở trong trường người thì dùng sách, kẻ đi thuê người làm bài, học trò với quan trường thì thông với nhau, thành ra cái chợ thi. Phép thi cử bấy giờ thật là bậy.

14. Trường học võ.

Đời vua Dụ Tông, Trịnh Cương lại mở ra trường học võ, đặt quan giáo thụ để dạy cho con cháu các quan vào học võ kinh chiến lược, cứ mỗi tháng một lần tiểu tập, ba tháng một lần đại tập. Mùa xuân mùa thu thì tập võ nghê, mùa đông mùa hạ thì tập võ kinh.

Lại đặt ra lệ 3 năm một lần thi võ. Thi là đại khái là phải bắn cung, múa giáo, múa gươm, phi ngựa mà bắn cung và chạy bộ và bắn cung, rồi sau cùng hỏi nghĩa sách để xét học lực, hỏi phương lược để xét tài năng.

Năm canh thân (1740) Trịnh Doanh lập võ miếu, chính vị thì thờ Vũ Vương, Khương thái công, Tôn võ tử, Quảng tử, v.v.... Ở đàng sau thì thờ Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, và lại lập miếu riêng thờ Quan Công. Cứ xuân thu hai kỳ tế lễ.

15. Làm Quốc Sử.

Từ khi ông Vũ Quỳnh làm sách Đại Việt Thông Giám, mãi đến đời vua Lê Huyền Tông nhà Hậu Lê, Trịnh Tạc mới sai quan Tham Tụng là Phạm Công Trứ soạn sách Việt Sử Toàn Thư, kể từ vua Trang Tông nhà Hậu Lê cho đến vua Thần Tông, chia ra làm 23 quyển; nhưng mà bộ sử ấy không in. Đến năm bính thìn (1676) đời vua Hi Tông sai Hồ Sĩ Dương xét lại bộ quốc sử, nhưng chẳng bao lâu ông ấy mất, lại sai Lê Hi và Nguyễn Quý Đức chép nối từ vua Huyền Tông cho đến vua Gia Tông, thêm vào 13 quyển, gọi là Quốc Sử Thực Lục.

Năm ất tị (1775) đời Cảnh Hưng, Trịnh Sâm sai Nguyễn Hoàn, Lê Quý Đôn, Ngô Thời Sĩ, Nguyễn Du soạn quốc sử, chép thêm từ Hi Tông cho đến đời Ý Tông, gọi là Quốc Sử Tục Biên, cả thảy là 6 quyển.

16. Sự Đánh Dẹp Giặc Giã Trong Nước.

Về thời Trịnh Tạc, Trịnh Căn, Trịnh Cương làm chúa, thì ông nào cũng hết lòng lo việc trị dân, và lại nhờ có những người tôi giỏi như Phạm Công Trứ, Nguyễn Công Hãng, v.v... đều hết sức giúp đỡ, cho nên sửa sang được nhiều việc, nước được yên trị. Nhưng mà từ khi Trịnh Giang lên nối nghiệp chúa, giết vua Lê, hại cả các quan đại thần như Nguyễn Công Hãng, Lê Anh Tuấn và làm lắm điều tàn ác. Tính ông ấy đã tàn ngược lại hay tiêu dùng xa xỉ, thuế má một ngày một nhiều, sưu dịch một ngày một nặng, dân tình khổ sở, giặc giã nổi lên khắp cả mọi nơi, đường sá trạm dịch đi không được, phải làm đồn hỏa hiệu ở trên đỉnh núi để phòng khi có việc gì thì đốt lửa báo

Bấy giờ trong triều thì có mấy người tôn thất như là Lê Duy Mật, Lê Duy Qui, Lê Duy Chúc 109

cùng với mấy người triều thần là Phạm Công Thế, Võ Thước, định đốt kinh thành để trừ họ Trịnh, nhưng chẳng may việc lộ ra phải bỏ chạy. Ở ngoài các trấn thì chỗ nào cũng có giặc, ở Hải Dương thì có Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ nổi lên ở làng Ninh Xá (thuộc huyện Chí Linh), Võ Trác Oánh nổi lên ở làng Mộ Trạch (thuộc huyện Đường An), ở đất Sơn Nam thì có Hoàng Công Chất, đều lấy tiếng phù Lê diệt Trịnh làm cớ, bởi vậy cho nên dân mặt đông nam mang bừa vác gậy đi theo giặc. Toán nào đông thì kể có hàng vạn người, toán nào ít thì cũng có đến hàng trăm hàng nghìn người, rồi đi cướp phá ở các hương thôn và vây các thành ấp, quan quân đánh dẹp không được.

Đang lúc giặc cướp như thế, Trịnh Giang cứ dâm dật vô độ, lại đào hầm làm nhà ở dưới đất để cho khỏi sợ sấm sét, còn việc chính trị thì để cho những hoạn thần là bọn Hoàng Công Phụ chuyên quyền làm bậy. Các quan ở phủ liêu là Nguyễn Quý Cảnh, Nguyễn Công Thái, Võ công Tể bèn truất Trịnh Giang mà lập em là Trịnh Doanh lên làm chúa, để lo việc đánh dẹp cho yên giặc giã.

Đời bấy giờ giặc cướp thì nhiều, nhưng mà những giặc to phải đánh lâu, thì có Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ, và Võ Trác Oánh ở đất Hải Dương; Hoàng Công Chất, Võ Đình Dung ở Sơn Nam; Nguyễn Danh Phương, Nguyễn Diên, Tế, Bồng, ở Sơn Tây; Nguyễn Hữu Cầu ở mặt đông nam; Lê Duy Mật ở mặt Thanh Hóa và Nghệ An. May lúc ấy lại có những quan đánh giặc giỏi như Hoàng Nghĩa Bá, Hoàng Ngũ Phúc, Phạm Đình Trọng, Nguyễn Phan, Bùi Thế Đạt, v.v.... cho nên Trịnh Doanh và Trịnh Sâm mới dần dần dẹp yên được các nơi.

109

Duy Mật và Duy Qui là con vua Dụ Tông, Duy Chúc là con vua Hi Tông.

Giặc Ngân Già: Năm canh thân (1740 trong khi đất Hải Dương, ở làng Ninh Xá, có Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ làm loạn, thì đất Sơn Nam, ở làng Ngân Già, có Vũ Đình Dung, Đoàn Danh Chấn, Tú Cao, cướp phá rất dữ, giết cả quan Đốc lĩnh là Hoàng Kim Qua. Thế giặc mạnh lắm, Trịnh Doanh phải tự làm tướng đem binh đi đánh, bắt được Võ Đình Dung đem chép, và đỗi tên xã Ngân Già làm Lai Cách (nay là Gia Hòa).

Giặc Ninh Xá: Trước hết Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ, Võ Trác Oánh và Nguyễn Diên dấy binh từ năm kỷ mùi (1739) làm loạn ở Hải Dương, rồi vẫy vùng ở đất Từ Sơn, Thuận Thành, Nam Sách và Hồng Châu. Nguyễn Cừ thì giữ đất Đỗ Lâm ở Gia Phúc, Nguyễn Tuyển thì giữ núi Phao Sơn ở Chí Linh, làm đồn, xây lũy liên lạc với nhau, quân lính kể có hàng mấy vạn người, quan quân đi đánh có nhiều người phải bắt.

Năm tân sửu (1745) quan thống lĩnh Hải Dương là Hoàng Nghĩa Bá phá được các đồn của giặc ở Phao Sơn, ở Ninh Xá và ở Gia Phúc; Nguyễn Tuyển thua chạy rồi chết, Võ Trác Oánh không biết đi đâu mất. Còn Nguyễn Cừ thì chạy lên Lạng Sơn được mấy tháng lại về Đông Triều, nhưng vì hết lương phải vào nấp ở núi Ngọa Vân Sơn, bị quan Hiệp Đồng là ông Phạm Đình Trọng bắt được đóng cũng đem về kinh làm tội. Từ đó giặc Cừ và giặc Tuyển mới tan.

Nguyễn Hữu Cầu: Nguyễn Hữu Cầu, tục gọi là quận He, người Hải Dương, trước đi ăn cướp, sau theo Nguyễn Cừ làm giặc. Đến khi Nguyễn Cừ bị bắt rồi, Nguyễn Hữu Cầu đem đồ đảng về giữ núi Đồ Sơn và đất Vân Đồn. Năm quý hợi (1743), Hữu Cầu giết được quan Thủy Đạo đốc binh là Trịnh Bảng, rồi tự xưng làm Đông Đạo Thống Quốc Bảo Dân Đại Tướng Quân, thanh thế lừng lẫy ở mạn ấy. Sau bị Hoàng Ngũ Phúc đem binh đến vây ở núi Đồ Sơn, Hữu Cầu phá vây ra, về đánh lấy thành Kinh Bắc, quan Trấn phủ là Trần Đình Cẩm, và quan Đốc đồng là Võ Phương Đề đánh thua ở Thị Cầu phải bỏ ấn tính mà chạy; ở Kinh Sư, được tin ấy rất lấy làm báo động.

Hoàng Ngũ Phúc đem binh về, cùng với Trương Khuông lấy lại thành Kinh Bắc, nhưng thế Nguyễn Hữu Cầu vẫn mạnh, phá quân của Trương Khuông ở làng Ngọc Lâm (thuộc huyện Yên Dũng), đuổi quân của quan thống lĩnh Đinh Văn Giai ở Xương Giang (thuộc huyện Bảo Lộc) rồi lại về vây dinh Thị Cầu.

Trịnh Doanh sai Hoàng Ngũ Phúc và Phạm Đình Trọng đem binh đến đánh Hữu Cầu ở Xương Giang, giết được tướng của giặc là tên Thông, lấy được quân nhu chiến mã thật là nhiều.

Nguyễn Hữu Cầu là một người kiệt hiệt nhất trong bọn làm giặc thời bấy giờ, mà lại quỷ quyệt, ra vào bất trắc lắm; có khi bị vây hàng mấy vòng, mà chỉ một mình một ngựa phá vây ra, rồi chỉ trong mấy ngày lại có hàng vạn người đi theo. Vì rằng ngày thường cướp được thóc gạo của thuyền buôn, đem cho dân nghèo, cho nên đi đến đâu cũng có người theo, muốn lấy bao nhiêu quân lương cũng có.

Các tướng sĩ ai cũng sợ, duy chỉ có ông Phạm Đình Trọng là đánh được Hữu Cầ mà thôi, cho nên Hữu Cầu đào mã mẹ ông ấy đổ xuống sông. Từ đó Phạm Đình Trọng thề không cùng sống ở đời với Nguyễn Hữu Cầu. Cũng vì lẽ ấy cho nên năm bính dần (1749) Hữu Cầu cho người đem vàng về đút lót cho Đỗ Thế Giai và người nội giám là Nguyễn Phương Đĩnh để xin hàng, Trịnh Doanh thuận cho và lại phong cho làm Hướng Nghĩa Hầu, lại sai quan Thiêm Tri là Nguyễn Phi Sảng đem tờ dụ ra bảo Phạm Đình Trọng đừng đánh Nguyễn Hữu Cầu nữa. Phạm Đình Trọng khăng khăng một mực không chịu, bảo Nguyễn Phi Sảng rằng: "Những người làm tướng ở ngoài dẫu có mệnh vua cũng có điều không nên chịu. Ông vâng mệnh vua đi gọi giặc về hàng thì ông cứ đi, tôi vâng mệnh vua đi đánh giặc, thì tôi cứ đánh". Nói xong, cất quân đi ngay.

Lúc ấy Phạm Đình Trọng có mộ người ở huyện Thanh Hòa, huyện Tú Kỳ, huyện Vĩnh Lại và huyện Thượng Hồng, đặt làm 4 cơ, giao cho hai người thủ hạ cai quản. Ở phủ liêu bọn Đỗ Thế Giai nhân lấy điều ấy mà nói gièm với Trịnh Doanh. Nhưng Trịnh Doanh vốn biết Phạm Đình Trọng là người trung thành, không nói gì đến việc ấy, lại làm một bài thơ đưa ra cho ông ấy để ông ấy yên lòng.

Nguyễn Hữu Cầu tuy đã xin về hàng, nhưng vẫn cứ cướp phá các nơi, sau lại về phá ở đất Sơn Nam. Một hôm Phạm Đình Trọng đánh đuổi Hữu Cầu ở Cẩm Giàng, Hữu Cầu nói với thủ hạ rằng: "Ta vừa mới thua, có tin về Kinh, tất nhiên không ai phòng bị, nay ta lẻn về đánh có lẽ được". Nói đoạn, ngay đêm hôm ấy kéo quân về bến Bồ Đề. Đến nơi thì trời vừa sáng; có tin báo, Trịnh Doanh tự đem quân ra giữ ở bến Nam Tân. Phạm Đình Trọng biết tin ấy lập tức đem quân về đánh mặt sau, Hữu Cầu lại thua bỏ chạy.

Từ khi thua trận Bồ Đề rồi, Hữu Cầu về cùng với Hoàng Công Chất cướp ở huyện Thần Khê và Thanh Quan. Phạm Đình Trọng và Hoàng Ngũ Phúc lại đem binh xuống đánh đuổi.

Hoàng Công Chất chạy vào Thanh Hóa, Hữu Cầu chạy vào Nghệ An hợp đảng với tên Diên ở Hương Lãm (thuộc huyện Nam Đường). Phạm Đình Trọng đem quân vào đánh phá trại giặc, rồi đuổi Hữu Cầu ra đến làng Hoàng Mai bắt được, đóng cũi đem về nộp chúa Trịnh. Bấy giờ là năm tân vị (1751) tức là năm Cảnh Hưng thứ 12.

Nguyễn Danh Phương: Năm canh thân (1740) tên Tế và tên Bồng làm loạn ở đất Sơn Tây, quan Chính Tây Đại Tướng quân là Võ Tá Lý đánh bắt được cả hai tên ấy ở huyện An Lạc (thuộc phủ Vĩnh Tường). Bấy giờ thủ hạ tên Tế là Nguyễn Danh Phương, tục gọi là quận Hẻo, đem dư đảng về giữ núi Tam Đảo. Một mặt thì mộ quân trữ lương và một mặt thì cho người về nói dối xin hàng.

Lúc bấy giờ tên Cầu tên Chất đang làm loạn ở phía đông nam, cho nên Trịnh Doanh cũng tạm cho hàng.

Năm giáp tí (1744) tên Phương đem hơn một vạn quân về giữ đất Việt Trì, sang cướp phá ở bên huyện Bạch Hạc. Bấy giờ quan Đốc suất Sơn Tây là Văn Đình Ức đem binh đến vây đánh, Danh Phương chạy sang giữ làng Thanh Linh (huyện Bình Xuyên, đất Thái Nguyên). Từ đó Danh Phương lập đại đồn ở núi Ngọc Bội (giáp huyện Bình Xuyên và huyện Tam Dương), trung đồn ở đất Hương Canh, ngoại đồn ở đất Ức Kỳ, rồi tự xưng là Thuận Thiên Khải Vận Đại Nhân, làm cung điện, đặt quan thuộc, thu các thứ thuế ở đất Tuyên Quan, thanh thế lừng lẫy trong non 10 năm trời, thành ra một nước riêng trong nước Nam vậy.

Năm canh ngọ (1750) Trịnh Doanh tự đem đại quân đi đường Thái Nguyên đến đánh phá được đồn Ức Kỳ. Khi quân tiến lên đến đồn Hương Canh, giặc bắn súng, đạn ra như mưa, quan quân không tiến lên được Trịnh Doanh mới lấy gươm trao cho ông Nguyễn Phan mà bảo rằng: "Đồn này phá không được thì lấy quân pháp mà trị!" Nguyễn Phan đem quân sấn vào rồi cởi áo chiến bào ra, xuống ngựa đi bộ, và bảo những người thủ hạ rằng: "Quân sĩ có tên ở trong sổ sách, việc gì đã có quân pháp. Chúng bay là người riêng của ta mà hôm nay là buổi ta phải bỏ mình để giúp nước, và lại chính là ngày chúng bay đền ơn cho ta. Vậy ai có cha già con dại, thì cho lui ra, còn thì nên cùng với ta mà liều một trận sống chết để báo đền ơn nước, cho khỏi phụ cái tiếng râu mày!". Thủ hạ không ai chịu lùi, đều xin cùng xông vào, phá được đồn Hương Canh. Doanh Phương rút quân về giữ đồn Ngọc Bội, quân Trịnh Doanh tiến lên đuổi đánh. Nguyễn Phan sai thủ hạ cầm đồ đoản binh cho tự tiện đi trước mà vào, đại quân theo sau. Giặc giữ không nổi bỏ chạy tan cả. Nguyễn Danh Phương chạy vào núi Độc Tôn, quan quân đuổi đến làng Tĩnh Luyện ở huyện Lập Thạch thì bắt được. Trịnh Doanh đem quân về Kinh đô, đi đến làng Xuân Hi, huyện Kim Anh, gặp người của Phạm Đình Trọng giải Nguyễn Hữu Cầu đến. Trịnh Doanh bèn mở tiệc khao quân, bắt tên Phương dâng rượu, tên Cầu thổi kèn, ba quân hôm ấy thật là vui vẻ.

Về đến Kinh sư, tên Cầu và tên Phương đều phải chém cả.

Hoàng Công Chất: Hoàng Công Chất cùng với Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ nổi lên một lúc. Trước phá ở đất Sơn Nam về hạt Khoái Châu. Đến năm ất sửu (1745) lại bắt được và giết quan trấn thủ Sơn Nam là Hoàng Công Kỳ, sau vì quan quân đuổi đánh, Công Chất chạy vào Thanh Hóa rồi ra Hưng Hóa cùng với tên Thành làm loạn ở vùng ấy. Năm tân tỵ tên Thành bị quan quân bắt được, tên Chất chạy lên giữ động Mãnh Thiên (phía bắc Hưng Hóa) rồi chiếm giữ cả mấy châu gần đấy, đồ đảng có hàng vạn người. Từ đó tên Chất cứ cướp phá ở đất Hưng Hóa và đất Thanh Hóa. Mãi đến năm kỷ sửu (1769) Trịnh Sâm mới sai quan thống lĩnh là Đoàn Nguyễn Thục đem quân Sơn Tây lên đánh động Mãnh Thiên. Khi quan quân lên đến nơi thì Hoàng Công Chất đã chết rồi, con là Hoàng Công Toản chống giữ không nổi, bỏ chạy sang Vân Nam. Đồ đảng tan cả.

Lê Duy Mật: Năm mậu ngọ (1738) đời vua Ý Tông, bọn hoàng thân là Lê Duy Mật, Lê Duy Qui và Lê Duy Chúc định mưu giết họ Trịnh, nhưng chẳng may sự không thành phải bỏ chạy vào Thanh Hóa. Sau Duy Qui và Duy Chúc phải bệnh mất, còn Duy Mật giữ đất thượng du phía tây nam. Những người đồng mưu với Duy Mật đều bị họ Trịnh bắt được giết cả. Bấy giờ Duy Mật có bắt được Phạm Công Thế đem ra hỏi rằng: "Ông là người khoa giáp sao lại theo nghịch?" - Công Thế cười mà nói rằng: "Đã lâu nay danh phận không rõ, lấy gì mà phân thuận nghịch?" Nói rồi giương cổ ra chịu hình.

Lê Duy Mật từ khi chạy về Thanh Hóa, chiêu tập binh sĩ, rồi từ năm canh thân (1740) là Cảnh Hưng năm đầu, về đánh ở đất Hưng Hóa và Sơn Tây, sau lại cùng với giặc là tên Tương giữ đồn Ngọc Lâu (thuộc huyện Thạch Thành). Đến khi tướng họ Trịnh phá được đồn Ngọc Lâu, tên Tương tử trận, Lê Duy Mật lại chạy vào Nghệ An, rồi sang Trấn Ninh giữ núi Trình Quang làm căn bản.

Năm giáp tí (1764) Lê Duy Mật sai người đem thư vào cầu cứu với chúa Nguyễn là Vũ Vương. Nhưng chúa không muốn gây sự với họ Trịnh, cho nên không giúp.

Năm đinh hợi (1767) được tin Trịnh Doanh vừa mất, con là Trịnh Sâm lên làm chúa, Lê Duy Mật đem quân về đánh ở đất Hương Sơn và đất Thanh Chương rồi lại rút về Trấn Ninh. Trịnh Sâm cho người đưa thư sang vỗ về không được, mới quyết ý dùng binh để dứt mối loạn.

Năm kỷ sửu (1769) Trịnh Sâm sai Bùi Thế Đạt làm thống lĩnh đất Nghệ An, Nguyễn Phan làm chánh đốc lĩnh đất Thanh Hóa, Hoàng Đình Thể làm đốc binh đất Hưng Hóa, cả ba đạo đều tiến sang đánh Trấn Ninh. Khi qua6n của Bùi Thế Đạt và Nguyễn Phan đến vây Trình Quang. Lê Duy Mật định cứ giữ hiểm không ra đánh. Không ngờ là người con rể là Lại Thế Chiêu làm phản, mở cửa lũy cho quân họ Trịnh vào. Duy Mật biết có nội biến, bèn cùng với vợ con tự đốt mà chết

* * *

Tóm lại mà xét, thì những công việc của họ Trịnh sửa đổi ở miền Bắc cũng nhiều, và có thể chia ra làm ba thời kỳ:

Thời kỳ thứ nhất vào khoảng Trịnh Kiểm, Trịnh Tùng và Trịnh Tráng. Lúc bấy giờ còn phải đánh họ Mạc ở phía Bắc, rồi lại chống với họ Nguyễn ở phía Nam, cho nên trong thời kỳ ấy chỉ có việc chiến tranh ở ngoài mà thôi, còn những công việc trong nước không sửa sang được mấy.

Thời kỳ thứ hai là vào khoảng Trịnh Tạc, Trịnh Căn và Trịnh Cương. Lúc bấy giờ việc chiến tranh đã yên, trong nước bình trị, cho nên trong thời kỳ ấy các chúac mới sửa sang và chỉnh đốn lại những phép tắc, luật lệ, việc thuế khóa, sự học hành, thi cử, v.v....

Thời kỳ thứ ba là vào khoảng Trịnh Giang, Trịnh Doanh và Trịnh Sâm. Vì Trịnh Giang thất chính cho nên trong thời kỳ này có lắm giặc giã, quan quân phải đánh đông dẹp bắc trong ba bốn năm trời, thành ra không làm được việc gì ích lợi, đến nỗi dân nghèo nước yếu, chính trị điêu tàn, bởi vậy cho nên chẳng bao lâu mà nhà Trịnh đổ, nhà Lê cũng mất.

CHƯƠNG VI

Công-việc họ Nguyễn làm ở miền Nam

1. Quan-chế

2. Thi-cử

3. Việc võ-bị

4. Việc thuế-khóa

5. Số tiền chi-thu trong nước

6. Lấy đất Chiêm-thành

7. Mở đất Nam Việt và sự giao-thiệp

với Chân-lạp

8. Việc giao-thiệp với nước Tiêm-la

9. Việc lập dinh định phủ

Họ Nguyễn đã giữ riêng một cõi ở phía nam, lập ra nghiệp chúa, lưu- truyền đời nọ qua đời kia, bởi vậy cho nên chính-trị, thuế-lệ, binh-lính, việc gì cũng tự sửa-sang và xếp đặt lấy như là một nước tự-chủ vậy.

1. Quan-Chế.

Lúc họ Nguyễn chưa ra mặt chống nhau với họ Trịnh thì quan-lại vẫn ở ngoài Bắc bổ vào nhưng mà từ khi chúa Sãi là Nguyễn Phúc Nguyên không chịu nộp thuế cho nhà Lê, và đem quân chống giữ với quân họ Trịnh ở bắc Bố-Chính thì các quan-viên đều do chúa Nguyễn đặt lấy cả.

Ở Chính dinh là chỗ chúa đóng thì đặt tam-ti để giúp chúa coi việc chính- trị. Tam-ti là: Xá sai-ti, Tướng-thần-lại-ti, Lệnh-sử-ti. 1. Xá-sai-ti

giữ việc từ tụng văn án. Có quan Đô-tri, Ký-lục làm đầu. 2. Tướng-thần-lại-ti

giữ việc thu tiền thu thuế, chi-phát lương- thực cho quan các đạo. Có quan cai-bạ làm đầu. 3. Lệnh-sử-ti

giữ việc tế tự, tết nhất và việc chi-cấp lương cho quân ở chính dinh. Có quan Nha-úy làm đầu.

Mỗi ti lại có quan Cai-hợp, Thủ-hợp và các lại-ti để làm mọi việc.

Ở ngoài các dinh, thì có nơi chỉ đặt có một Lệnh-sử-ti kiêm cả việc Xá-sai-ti và Tướng-thần-lại-ti, có nơi thì đặt Xá-sai-ti và Lệnh-sử-ti để coi việc quân dân, từ tụng, đinh điền, sổ sách, thuế khóa, v.v. nghĩa là tùy nơi quan-trọng hay là không, mà thêm bớt quan-viên.

Ở phủ huyện, thì đặt tri-huyện, tri-phủ, để coi việc từ tụng, thuộc hạ thì có đề-lại, thông-lại, chuyên việc khám xét. Lại có huấn đạo, lễ-sinh, chuyên việc tế-tự ở chỗ sở tại. Còn việc thu thuế thì đặt quan khác để coi về việc ấy.

Đến đời chúa Thượng Nguyễn phúc Lan (1635-1648) lại đặt thêm chức nội-tả, ngoại-tả, nội-hữu, ngoại-hữu, gọi là tứ trụ để giúp chúa trị dân.

Về đàng quan võ thì đặt chức: chưởng-đinh, chưởng-cơ, cai-cơ, cai- đội để coi việc binh.

2. Thi Cử.

Năm đinh-hợi (1674) chúa Nguyễn mở khoa thi gọi là thi chính đồ và thi hoa-văn.

Thi chính đồ chia ra làm ba kỳ: kỳ đệ-nhất thi tứ-lục, kỳ đệ-nhị thi thơ-phú, kỳ đệ-tam thi văn-sách. Quan tri-phủ tri-huyện làm sơ-khảo, quan cai-bạ, ký-lục, vệ-úy làm giám-khảo. Những quyển đậu, thì chia ra làm ba hạng: hạng thứ nhất gọi là giám-sinh, được bổ ra làm tri-phủ, tri-huyện; hạng thứ nhì gọi là sinh đồ được bổ làm huấn đạo; hạng thứ ba cũng gọi là sinh đồ được bổ làm lễ-sinh, hoặc làm nhiêu-học.

Thi hoa-văn thì cũng phải ba ngày, mỗi ngày chỉ phải làm có một bài thơ mà thôi. Ai đậu thì được bổ vào làm việc ở Tam-ti.

Năm ất-hợi (1695) Quốc-chúa Nguyễn Phúc Chu (1691-1725) mở khoa thi ở trong phủ chúa, gọi là thi Văn-chức và thi Tam-ti. Thi Tam-ti là thi Xá-sai ti, thi Tướng-thần-lại-ti và thi Lệnh-sử-ti. Thi Văn-chức thì thi tứ- lục, thơ-phú, văn-sách; thi Xá-sai-ti thì hỏi về việc binh-lính, tiền lương, từ tụng; thi Tướng-thần-lại-ti và Lệnh-sử-ti thì chỉ làm một bài thơ mà thôi.

Năm canh-thân (1740), Vũ-vương Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765) định lại phép thi: những người đậu kỳ đệ-nhất gọi là nhiêu-học, được miễn sai 5 năm; đậu kỳ đệ-nhị và kỳ đệ-tam thì được miễn sai chung thân; đậu kỳ đệ-tứ gọi là hương-cống, được bổ đi làm tri-phủ, tri-huyện.

Xem như vậy thì sự thi-cử ở miền Nam đời bấy giờ còn sơ-lược lắm.

3. Việc Võ-Bị.

Họ Nguyễn bấy giờ phải chống nhau với họ Trịnh cho nên phải lo việc võ-bị hơn. Quân thì chia ra làm năm cơ gọi là: trung cơ, tả cơ, hữu cơ, tiền cơ, hậu cơ. Số quân độ chừng non ba vạn người.

Năm tân-mùi (1631) chúa Sãi lập ra sở đúc súng đại-bác và mở trường bắn, trường tập voi, tập ngựa, cứ hằng năm luyện-tập để phòng-bị chiến-tranh.

4. Việc Thuế-Khóa.

Điền-thổ chia ra làm 3 hạng để đánh thuế. Lại có hạng gọi là thu điền, khô thổ, nghĩa là ruộng đất xấu thì thuế đánh lại nhẹ hơn ruộng đất thường.

Những công điền thì cấp cho dân cày-cấy để nộp thuế; còn ai khai-khẩn được đất hoang ra làm ruộng, thì cho là tư điền.

Thuế mỏ. Ở đất Quảng-nam, Thuận-hóa có mỏ vàng; ở đất Quảng- nghĩa có mỏ bạc; ở đất Bố-chính có mỏ sắt. Các mỏ ấy đều đánh thuế cả.

Thuế xuất-cảng nhập-cảng. Lệ cứ những tàu ở Thượng-hải và ở Quảng đông lại, thì phải nộp 3.000 quan, đến lúc đi phải nộp 300 quan. Tàu ở Mả-cao, ở Nhật-bản lại, thì phải nộp 4.000 quan, đến lúc đi phải nộp 400 quan. Tàu ở Tiêm-la, ở Lã-tống lại, thì phải nộp 2.000 quan, đến lúc đi phải nộp 200 quan. Tàu ở các nước phương Tây lại, thì phải nộp 8.000 quan, đến lúc về phải nộp 800 quan.

Thuế ấy chia ra làm 10 thành: 6 thành thì đem vào kho, còn 4 thành để nộp cho quan-lại, binh-lính đã coi về việc thu thuế.

5. Số tiền chi-thu trong nước.

Năm quí đậu (1753) Vũ- vương sai quan Chưởng-thái-giám là Mai văn Hoan tính số vàng, bạc và tiền thu vào phát ra mỗi năm là bao nhiêu.

Bấy giờ số tiền thì có năm thu vào được hơn 338.100 quan, mà phát ra mất hơn 364.400 quan; có năm được hơn 423.300 quan, mà phát ra mất hơn 369.400 quan. Vàng thì có năm thu được 830 lượng, có năm được 890 lượng. Bạc thì thứ giáp-ngân (?) có năm thu được 240 lượng, có năm được 390 lượng; thứ dung-ngân (?) có năm được 2.400 lượng, có năm được 1.800 lượng; thứ kê-ngân (?) có năm được 10.100 đồng, có năm được 400 đồng, cũng có năm không có đồng nào.

Tính đổ đồng lại từ năm bính-dần (1746) đến năm nhâm-thân (1752) nghĩa là trong 7 năm, số vàng được 5.768 lượng, số giáp ngân được 9.978 lượng, số dung-ngân được 14.276 lượng, số kê-ngân được 21.150 đồng.

Từ đó trở đi mỗi năm phải làm sổ kê rõ ra trong năm vàng bạc và tiền thu vào và phát ra mất bao nhiêu, lệ cứ đến ngày mồng ba tháng giêng năm sau dâng lên để chúa xem.

Những tiền tiêu trong nước, thì có tiền đồng và tiền kẽm, khắc hai chữ thái-bình.

6. Lấy đất Chiêm-Thành.

Trước Trịnh Kiểm chỉ cho Nguyễn Hoàng vào trấn-thủ đất Thuận-hóa mà thôi; sau đến năm canh-ngọ (1570) họ Trịnh đòi quan trấn-thủ Quảng-nam là Nguyễn Bá Quýnh về trấn đất Nghệ-an, để đất Quảng-nam cho Nguyễn Hoàng kiêm lĩnh.

Năm tân-hợi (1611) Nguyễn Hoàng vào đánh nước Chiêm-thành lấy đất lập ra phủ Phú-yên; chia ra làm hai huyện là Đồng-xuân và Tuyên-hòa. Đến năm quí-tị (1653) vua nước Chiêm-thành là Bà Thấm sang quấy-nhiễu ở đất Phú-yên, chúa Hiền là Nguyễn Phúc Tần mới sai quan cai-cơ là Hùng Lộc sang đánh. Bà Thấm phải dâng thư xin hàng. Chúa Nguyễn để từ sông Phan-lang trở vào cho vua Chiêm, còn từ sông Phan-lang trở ra lấy làm Thái-ninh-phủ, sau đổi làm phủ Diên-khánh (tức là Khánh-hòa bây giờ), đặt dinh Thái-khang để Hùng Lộc làm thái-thú.

Năm quí-dậu (1693) vua nước Chiêm-thành là Bà Tranh bỏ không tiến cống, chúa Nguyễn là Nguyễn Phúc Chu sai quan tổng-binh là Nguyễn hữu Kính (con Nguyễn hữu Dật) đem binh đi đánh bắt được Bà Tranh và bọn thần-tử là Tả trà Viên, Kế bà Tử cùng thân-thuộc là Bà Ân đem về Phú-Xuân. Chúa Nguyễn đổi đất Chiêm-thành làm Thuận-phủ, cho Tả trà Viên, Kế bà Tử làm chức Khám-lý và ba người con của Bà Ân làm đề đốc giữ Thuận-phủ, lại bắt phải đổi y phục theo như người Việt-nam để phủ dụ dân Chiêm- thành. Qua năm sau lại đổi Thuận-phủ ra làm Thuận-thành-trấn, cho Kế bà Tử làm tả-đô-đốc. Năm đinh-sửu (1697) chúa Nguyễn đặt phủ Bình-thuận lấy đất Phan-lý (Phan-tri) Phan-lang (Phan-rang) làm huyện Yên-phúc và huyện Hòa-đa.

Từ đó nước Chiêm-thành mất hẳn.

Nước Chiêm-thành chính là nước Lâm-ấp ngày trước đã từng qua mấy trăm năm, cùng với họ Lý, họ Trần đối địch, chống với quân Mông-cổ, không cho xâm phạm vào cõi, lập nên một nước có vua, có tôi, có chính-trị, có luật-pháp. Nhưng chỉ hiềm vì người nước ấy cứ hay sang cướp phá ở đất Việt-nam, thành ra hai nước không mấy khi hòa hiếu được với nhau.

Đã là đối địch thì không sao tránh khỏi được cái luật chung của tạo- hóa là: khỏe còn, yếu chết. Vì vậy cho nên từ khi vua Thánh-tông nhà Lê đã lấy đất Quảng nam và đã chia nước Chiêm ra làm 3 nước rồi, thì từ đó về sau thế-lực nước ấy mỗi ngày một kém, dân tình mỗi ngày một suy. Chẳng những là đến nỗi mất nước với chúa Nguyễn mà chủng-loại Chiêm-thành bây giờ cũng chẳng còn được mấy nghìn người nữa. Một nước trước như thế, mà nay như thế, dẫu rằng nước ấy đồng hóa với nước ta mặc lòng, song nghĩ cũng thương-tâm thay cho những nước yếu-hèn không tránh khỏi được cái họa: cá nhỏ bị cá lớn nuốt.

7. Mở đất Nam-Việt và sự giao thiệp với Chân-Lạp.

Nguyên nước Chân-lạp ở vào quãng dưới sông Mê-kông, có lắm sông nhiều ngòi, ruộng đất thì nhiều mà nước Nam ta thường hay mất mùa, dân-tình phải đói khổ luôn, và lại vào lúc chúa Nguyễn, chúa Trịnh đánh nhau, cho nên nhiều người bỏ vào khẩn đất, làm ruộng ở Mô-xoài (Bà-rịa) và ở Đồng- nai (nay thuộc Biên-hòa).

Năm mậu-tuất (1658) vua nước Chân-lạp mất rồi, chú cháu tranh nhau, sang cầu cứu bên chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn bấy giờ là chúa Hiền sai quan đem 3.000 quân sang đánh ở Mỗi-xuy (nay thuộc huyện Phước- chánh, tỉnh Biên-hòa) bắt được vua nước ấy là Nặc ông Chân đem về giam ở Quảng-bình một độ, rồi tha cho về nước, bắt phải triều-cống và phải bênh- vực người Việt-nam sang làm ăn ở bên ấy.

Năm giáp-dần (1674), nước Chân-lạp có người Nặc ông Đài đi cầu- viện nước Tiêm-la để đánh Nặc ông Nộn.

Nặc ông Nộn bỏ chạy sang cầu cứu ở dinh Thái-khang (nay là Khánh-hòa). Chúa Hiền bèn sai Cai-cơ đạo Nha-trang là Nguyễn dương Lâm cùng với Nguyễn đình Phái làm tham-mưu đem binh chia ra hai đạo sang đánh Nặc ông Đài, phá được đồn Sài-gòn, rồi tiến quân lên vây thành Nam- vang. Nặc ông Đài phải bỏ thành chạy vào chết ở trong rừng. Nặc ông Thu ra hàng. Nặc ông Thu là chính dòng con trưởng cho nên lại lập làm chánh quốc-vương đóng ở Long-úc, để Nặc ông Nộn làm đệ-nhị quốc-vương, đóng ở Sài-gòn, bắt hằng năm phải triều cống.

Năm kỷ-tị (1679) có quan nhà Minh là tổng-binh trấn-thủ đất Long- môn (Quảng-tây) Dương ngạn Địch, phó-tướng Hoàng Tiến, tổng-binh châu Cao, châu Lôi, và châu Liêm (thuộc Quảng-đông) là Trần Thượng Xuyên, phó-tướng Trần an Bình, không chịu làm tôi nhà Thanh, đem 3.000 quân cùng 50 chiếc thuyền sang xin ở làm dân Việt-nam. Chúa Hiền nhân muốn khai-khẩn đất Chân-lạp, bèn cho vào ở đất Đông-phố (tức là đất Gia định). Bọn Ngạn Địch chia nhau ở đất Lộc đã (tức là đất Đồng-nai thuộc Biên-hòa), ở Mỹ-tho (thuộc Định-tường), ở Ban-lân (thuộc Biên-hòa) rồi cày ruộng làm nhà lập ra phường-phố, có người phương tây, người Nhật-bản, người Chà-và đến buôn bán đông lắm.

Năm mậu-thìn (1688) những người khác ở Mỹ-tho làm loạn. Hoàng Tiến giết Dương ngạn Địch đi, rồi đem chúng đóng đồn ở Nan-khê, làm tàu đúc súng để chống nhau với người Chân-lạp. Vua Chân-lạp là Nặc ông Thu cũng đào hào đắp lũy để làm kế cố thủ và bỏ không chịu thần-phục chúa Nguyễn nữa.

Bấy giờ chúa Nguyễn là Nguyễn-phúc Trăn sai quan đem quân đi đánh dẹp, dùng mưu giết được Hoàng Tiến và bắt vua Chân-lạp phải theo lệ triều-cống.

Năm mậu-dần (1698) chúa Nguyễn là Nguyễn-phúc Chu sai ông Nguyễn hữu Kính làm kinh-lược đất Chân-lạp, chia đất Đông-phố ra làm dinh, làm huyện, lấy Đồng-nai làm huyện Phúc-long và Sài-gòn làm huyện Tân-bình. Đặt Trấn-biên dinh (tức là Biên-hòa) và Phan-trấn dinh (tức là Gia định) sai quan vào cai-trị. Lại chiêu-mộ những kẻ lưu dân từ Quảng-bình trở vào để lập ra thôn-xã và khai-khẩn ruộng đất. Còn những người Tàu ở đất Trấn-biên (Biên-hòa) thì lập làm xã Thanh-hà, những người ở đất Phan-trấn (Gia định) thì lập làm xã Minh-hương. Những người ấy đều thuộc về sổ bộ nước ta.

Bấy giờ lại có người khách Quảng đông tên là Mạc Cửu, trong khi nhà Thanh cướp ngôi nhà Minh bên Tàu, bỏ sang ở Chân-lạp, thấy ở phủ Sài-mạt có nhiều người các nước đến buôn-bán, bèn mở sòng đánh bạc, rồi lấy tiền chiêu-mộ những lưu dân lập ra 7 xã, gọi là Hà-tiên. Năm mậu-tí (1708) Mạc Cửu xin thuộc về chúa Nguyễn; chúa phong cho làm chức tổng- binh, giữ đất Hà-tiên.

Đến khi Mạc Cửu mất, chúa Nguyễn lại phong cho con Mạc Cửu là Mạc thiên Tứ làm chức đô đốc, trấn ở Hà-tiên. Mạc thiên Tứ đắp thành, xây lũy, mở chợ, làm đường và rước thầy về dạy Nho-học để khai-hóa đất Hà- tiên.

Thời bấy giờ đất Chân-lạp cứ loạn lạc luôn. Năm kỷ-mão (1699) vua nước ấy là Nặc ông Thu đem quân chống với quân chúa Nguyễn, chúa sai quan tổng-suất Nguyễn hữu Kính sang đánh. Quân ta sang đến thành Nam- vang, Nặc ông Thu bỏ chạy, con Nặc ông Nộn là Nặc ông Yêm mở cửa thành ra hàng. Sau Nặc ông Thu cũng về hàng, xin theo lệ triều-cống như cũ. Quân ta rút về.

Được ít lâu vua thứ hai là Nặc ông Nộn mất, vua thứ nhất là ông Nặc ông Thu phong cho con Nặc ông Nộn là Nặc ông Yêm làm quan và lại gả con gái cho. Sau Nặc ông Thu già yếu, truyền ngôi cho con là Nặc ông Thâm.

Năm ất-dậu (1705) Nặc ông Thâm nghi cho Nặc ông Yêm có ý làm phản, bèn khởi binh đánh nhau. Nặc ông Thâm lại đem quân Tiêm-la về giúp mình. Nặc ông Yêm phải chạy sang cầu cứu ở Gia định.

Chúa Nguyễn sai quan cai-cơ là Nguyễn cửu Vân sang đánh Nặc ông Thâm. Nguyễn cửu Vân sang phá được quân Tiêm-la; đem Nặc ông Yêm về thành La-bích. Từ đó Nặc ông Thâm ở Tiêm-la cứ thỉnh-thoảng đem quân về đánh Nặc ông Yêm.

Năm giáp-ngọ (1714) quân của Nặc ông Thâm về lấy thành La-bích và vây đánh Nặc ông Yêm nguy-cấp lắm. Nặc ông Yêm sai người sang Gia định cầu-cứu. Quan đô đốc Phiên-trấn (Gia-định) là Trần thượng Xuyên và quan phó-tướng Trấn-biên (Biên-hòa) là Nguyễn cửu Phú phát binh sang đánh, vây Nặc ông Thu và Nặc ông Thâm ở trong thành La-bích. Nặc ông Thu và Nặc ông Thâm sợ-hãi, bỏ thành chạy sang Tiêm-la. Bọn ông Trần thượng Xuyên lập Nặc ông Yêm lên làm vua Chân-lạp.

Năm tân-hợi (1729) quân Chân-lạp sang quấy-nhiễu ở hạt Gia định. Chúa Nguyễn bèn đặt sở Điều-khiển để thống-nhiếp việc binh ở mạn ấy.

Năm bính-thìn (1736) Nặc ông Yêm mất, con là Nặc ông Tha lên làm vua. Đến năm mậu-thìn (1747) Nặc ông Thâm lại ở bên Tiêm-la về, cử binh đánh đuổi Nặc ông Tha đi, rồi chiếm lấy ngôi làm vua. Nặc ông Tha phải bỏ chạy sang Gia định.

Được ít lâu Nặc ông Thâm mất, con là Nặc Đôn, Nặc Hiên và Nặc Yếm tranh nhau. Chúa Nguyễn bèn sai quan Điều-khiển là Nguyễn hữu Doãn đem quân sang đánh bọn Nặc Đôn và đem Nặc ông Tha về nước.

Nặc ông Tha về được mấy tháng lại bị người con thứ hai của Nặc ông Thâm là Nặc Nguyên đem quân Tiêm-la sang đánh đuổi đi. Nặc ông Tha chạy sang chết ở Gia định.

Nặc Nguyên về làm vua Chân-lạp thường hay hà-hiếp rợ Côn-man 110

và lại thông sứ với chúa Trịnh ở ngoài Bắc để lập mưu đánh chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn biết tình-ý ấy, đến năm quí-dậu (1753), sai Nguyễn cư Trinh sang đánh Nặc Nguyên. Năm ất-hợi (1755) Nặc Nguyên thua bỏ thành Nam-vang chạy sang Hà-tiên nhờ Mạc thiên Tứ.

Năm sau Mạc thiên Tứ dâng thư về nói rằng Nặc Nguyên xin dâng hai phủ Tầm-bôn và Lôi-lạp để chuộc tội, và xin cho về nước. Chúa Nguyễn không muốn cho. Bấy giờ ông Nguyễn cư Trinh dâng sớ bày-tỏ cách khai- thác nên dùng kế "tầm thực" nghĩa là nên lấy dần dần như con tầm ăn lá, thì mới chắc chắn được. Chúa Nguyễn nghe lời ấy bèn nhận hai phủ và cho Nặc Nguyên về Chân-lạp.

Năm đinh-sửu (1759) Nặc Nguyên mất, chú họ là Nặc Nhuận làm giám-quốc. Nặc Nhuận còn đang lo để xin chúa Nguyễn phong cho làm vua, thì bị người con rể là Nặc Hinh giết đi, rồi cướp lấy ngôi làm vua.

Quan tổng-suất là Trương phúc Du thừa kế sang đánh, Nặc Hinh thua chạy bị thuộc-hạ giết chết, bấy giờ con Nặc Nhuận là Nặc Tôn chạy sang nhờ Mạc thiên Tứ ở Hà-tiên. Mạc thiên Tứ dâng thư về xin lập Nặc Tôn làm vua Chân-lạp. Chúa Nguyễn thuận cho, sai Thiên Tứ đem Nặc Tôn về nước.

Nặc Tôn dâng đất Tầm-phong-long để tạ ơn chúa Nguyễn. Chúa bèn sai ông Trương phúc Du và Nguyễn cư Trinh đem dinh Long-hồ về xứ Tầm-bào, tức là chỗ tỉnh-lỵ tỉnh Vĩnh-long bây giờ, và lại đặt ra ba đạo là Đông-khẩu đạo ở Sa-đéc, Tân-châu đạo ở Tiền-giang và Châu đốc đạo ở Hậu-giang.

Nặc Tôn lại dâng 5 phủ là Hương-úc, Cần-bột, Trực-sâm, Sài-mạt và Linh-quỳnh để tạ ơn Mạc thiên Tứ. Mạc thiên Tứ đem những đất ấy dâng chúa Nguyễn, chúa cho thuộc về trấn Hà-tiên cai-quản.

Vậy đất 6 tỉnh Nam-Việt bây giờ là đất lấy của nước Chân-lạp mà người Việt-nam khai-thác ra.

110

Côn-man là chỗ những người Chiêm Thành sang tụ họp ở tại xứ Chân Lạp

8. Việc giao-thiệp với nước Tiêm-La.

Tiêm-la là một nước ở về phía tây-nam sông Mê-kông dòng đõi người Thái sang ở đấy.

Cứ theo sử ta và sử Tàu thì thoạt đầu tiên gọi là nước Phù-nam. Đến quãng nhà Tùy và nhà Đường bên Tàu là vào quãng thế-kỷ thứ sáu, thứ bảy thì đất Phù-nam chia ra làm hai: một nửa về phía đông có một dân-tộc khác đến lập ra nước Chân-lạp, còn một nửa về phía tây thì người Phù-nam ở gọi là nước Xích-thổ.

Vào quãng nhà Tống, nhà Kim (thế-kỷ thứ XI, thứ XII) thì nước Xích- thổ lại chia ra làm hai: một nước gọi là La-hộc, một nước gọi là Tiêm. Lúc nhà Nguyên làm vua bên Tàu (thế-kỷ thứ XIII, thứ XIV) thì sử có chép hai nước ấy sang cống.

Về sau nước La-hộc gồm được cả nước Tiêm, mới gọi là nước Tiêm- la-hộc. Đến đầu nhà Minh (cuối thế-kỷ thứ XIV) vua nước ấy sang cầu phong bên Tàu, vua Thái-tổ nhà Minh mới phong là nước Tiêm-la 111 .

Nước Tiêm-la lúc đầu còn nhỏ-yếu, thường bị người Chân-lạp áp- chế. Sau cường-thịnh dần dần lên, rồi vào khoảng năm Vạn-lịch (1573- 1620) nhà Minh, nước Tiêm-la lại đánh Chân-lạp mà hùng-bá cả phương ấy.

Trong thời ấy vua Tiêm-la là Phra Naroi dòng dõi nhà Ayouthia dùng một người Hi-lạp tên là Constantin Phaulcon làm tướng. Người ấy xin vua giao-thiệp với nước Pháp. Bởi vậy năm 1620 mới có bọn sứ-thần Tiêm-la sang bái-yết Pháp-hoàng Louis XIV ở tại Versailles.

Thủa bấy giờ chúa Nguyễn còn đang khai sáng ở đất Phú-yên, Khánh-hòa, nhưng về sau chúa Nguyễn lấy hết đất Chiêm-thành, lại lấn sang đất Chân-lạp. Người Tiêm-la có ý muốn ngăn-trở để giữ lấy Chân-lạp làm của mình. Nhưng vì thế chúa Nguyễn mạnh hơn, cho nên phải chịu để chúa Nguyễn sang bảo-hộ Chân-lạp.

Tuy vậy nước Tiêm-la thường hay dùng những người phản đối với vua Chân-lạp, rồi giúp binh-lực cho về làm loạn trong nước. Nhiều khi quân ta phải sang đánh đuổi quân Tiêm-la để giúp quốc-vương Chân-lạp. Cũng có khi quân Tiêm-la sang đánh ở đất Hà-tiên, như năm ất-tị (1715) người Chân-lạp là Nặc Thâm đem quân Tiêm-la sang cướp phá, quan tổng-binh Hà-tiên là Mạc Cửu phải bỏ thành mà chạy.

111

Nước Thái Lan ngày nay.

Quân ta và quân Tiêm-la đã giao chiến nhiều lần, cho nên hai bên không thông sứ với nhau. Mãi đến năm canh-ngọ (1750) đời chúa Nguyễn là Võ-vương Nguyễn-phúc Khoát, thì mới thấy sử chép rằng chúa sai quan đem thư sang trách nước Tiêm-la dung-túng kẻ nghịch-thần để làm loạn nước Chân-lạp.

Năm ất-hợi (1755) nước Tiêm-la sai sứ sang xin đừng đánh thuế những thuyền của nước ấy sang buôn-bán ở đất chúa Nguyễn. Chúa đáp thư lại rằng thuế ấy là quốc-lệ đã đặt ra không thể bỏ đi được.

Năm đinh-hợi (1767) quân nước Diến-Điện sang đánh Tiêm-la bắt được vua nước ấy là Phong-vương 112

và con là Chiêu Đốc cùng mấy vạn người dân đem về Diến-Điện. Còn những người con của Phong-vương là Chiêu xỉ Khang thì chạy sang Chân-lạp và Chiêu Thúy thì chạy sang Hà-Tiên.

Bấy giờ nước Tiêm-la không có vua, chức Phi-nhã (Phya) đất Mang- tát là Trịnh quốc Anh bèn khởi binh tự lập làm vua. Trịnh quốc Anh là người Triều-châu, tỉnh Quảng đông, cha tên là Yển sang ở đất Tiêm-la làm trưởng ở Mang-tát. Yển chết, Trịnh quốc Anh lên nối nghiệp xưng là Phi-nhã, là một chức xã-trưởng vậy.

Trịnh quốc Anh lên làm vua rồi sai sứ sang bắt vua Chân-lạp là Nặc Tôn phải sang cống. Nặc Tôn lấy lẽ rằng Trịnh quốc Anh không phải là dòng dõi người Tiêm-la, không chịu cống.

Vua Tiêm-la lấy điều ấy làm hiềm, sai tướng là Bôn Ma đem người Chân-lạp tên là Nặc Non về đánh Nặc Tôn. Nặc Tôn giữ vững các nơi, quân Tiêm-la không làm gì được lại phải rút về.

Trịnh quốc Anh biết con vua cũ là Chiêu Thúy còn ở Hà-tiên, sợ ngày sau sinh ra biến loạn, bèn đến tháng 10 năm tân-mão (1771) đem binh- thuyền sang vây đánh Hà-tiên. Quan tổng-binh là Mạc thiên Tứ giữ không nổi phải bỏ thành chạy.

Vua Tiêm-la để tướng là Trần Liên, ở lại giữ Hà-tiên rồi tiến quân sang đánh Chân-lạp. Quốc-vương là Nặc Tôn phải bỏ chạy. Vua Tiêm-la đóng quân ở thành Nam-vang và lập Nặc Non lên làm vua Chân-lạp.

112

Vua nước Tiêm La bấy giờ có bệnh hủi, cho nên sử gọi là Phong Vương

Tháng 6 năm sau (1772) chúa Nguyễn sai quan tổng-suất là Nguyễn cửu Đàm lĩnh chức Điều-khiển đem binh-thuyền đi đánh quân Tiêm-la. Quân của Nguyễn cửu Đàm tiến sang đến Nam-vang, quân Tiêm-la bỏ chạy về Hà-tiên, Nặc Non cũng chạy về Cầu-bột.

Nặc Tôn lại về làm vua Chân-lạp.

Vua Tiêm-la về đến Hà-tiên sai người đưa thư sang gọi Mạc thiên Tứ về để giảng-hòa. Mạc thiên Tứ không chịu. Vua Tiêm-la bèn để Trần Liên ở lại giữ Hà-tiên, rồi bắt con gái Mạc thiên Tứ và Chiêu Thúy đem về nước.

Năm sau Mạc thiên Tứ thấy việc không xong, bèn sai người sang Tiêm-la xin hòa. Vua Tiêm-la gọi Trần Liên về và cho người con gái của Mạc thiên Tứ về Hà-tiên. Còn Chiêu Thúy thì đem giết đi.

Từ đó Mạc thiên Tứ lại về giữ đất Hà-tiên.

9. Lập dinh định phủ.

Lúc đầu, Nguyễn Hoàng mới vào trấn đất Thuận-hóa thì đóng dinh ở làng Ái-tử (thuộc huyện Đăng-xương, gần tỉnh-lỵ tỉnh Quảng-trị). Được 13 năm sau (1570) Nguyễn Hoàng lại dời vào làng Trà-bát ở huyện ấy, tức là Cát Dinh. Đến năm bính-dần (1626) chúa Sãi là Nguyễn phúc Nguyên sắp sửa chống nhau với chúa Trịnh, mới dời dinh vào làng Phúc-an (thuộc huyện Quảng-điền, tỉnh Thừa-thiên bây giờ) và đổi chỗ tư sở là phủ.

Năm bính-tí (1636) chúa Thượng là Nguyễn phúc Lan lại dời phủ vào làng Kim-long (thuộc huyện Hương-trà, tỉnh Thừa-thiên).

Năm đinh-mão (1687) chúa Nguyễn là Nguyễn phúc Trăn đem phủ về làng Phú-xuân, tức là đất Kinh-thành bây giờ, gọi là chính dinh. Chỗ phủ cũ để làm Thái-tông-miếu, thờ chúa Hiền.

Năm giáp-tí (1744) Vũ-vương mới xưng vương-hiệu đổi phủ ra làm điện, sửa-sang phép-tắc, và định triều-phục. Lại chia nước ra làm 12 dinh.

1. Chính dinh (Phú-xuân) 2. Cựu dinh (Ái-tử) 3. Quảng-bình dinh 4. Vũ-xá dinh 5. Bố-chính dinh 6. Quảng-nam dinh 7. Phú-yên dinh | 8. Bình-khang dinh | đất Chiêm-thành 9. Bình-thuận dinh | 10. Trấn-biên dinh } 11. Phiên-trấn dinh } đất Chân-lạp 12. Long-hồ dinh }

Dinh nào cũng đặt quan Trấn-thủ, quan Cai-hạ, quan Ký-lục để coi việc cai-trị. Còn phủ Quảng-nghĩa và phủ Qui-nhơn thì thuộc về tỉnh Quảng- nam, cho nên mỗi phủ đặt riêng quan Tuần-phủ và quan Khám-lý để coi mọi việc. Đất Hà-tiên thì đặt là Trấn, có quan đô đốc cai-trị.

Tóm lại mà xét, họ Nguyễn làm chúa miền nam, nhưng trước thì vẫn giữ chức vua Lê phong cho, mãi đến đầu thế-kỷ thứ XVIII năm nhâm-ngọ (1702) Nguyễn phúc Chu mới sai người sang cống vua nhà Thanh để xin phong làm vua, nhưng Thanh-triều nói rằng nước Nam còn có họ Lê không phong được cho họ Nguyễn. Việc ấy lại im đi. Nguyễn-phúc Chu bèn xưng là quốc-chúa và đúc cái ấn Đại-Việt-Quốc Nguyễn Chúa Vĩnh Trấn Chi Bảo để làm cái Truyền-quốc-bảo, đến đời vua Thế-tổ mới thôi. Đến năm giáp-tí (1744) Nguyễn-phúc Khoát mới xưng vương-hiệu và đổi lại chế độ, định ra triều-nghi.

Bấy giờ đất phía nam tuy độc-lập, nhưng họ Nguyễn chỉ xưng chúa, chứ không xưng vua và vẫn không đặt quốc-hiệu. Nhưng người ngoại-quốc thường gọi đất chúa Nguyễn là Quảng-nam quốc. Đấy là vì ở Quảng-nam có phố Hội-an (Faifo) là chỗ người Tàu và người các nước ra vào buôn bán, cho nên mới lấy tên Quảng-nam mà gọi.

Còn những công-việc họ Nguyễn làm ở phía nam quan-trọng cho nước Nam ta hơn cả, là việc mở-mang bờ-cõi, khiến cho nước lớn lên, người nhiều ra, và nhất là chiêu-mộ những người nghèo-khổ trong nước đưa đi khai-hóa những đất phì-nhiêu bỏ hoang, làm thành ra Nam-Việt bây giờ phồn-phú hơn cả mọi nơi, ấy là cái công họ Nguyễn với nước Nam thật là to lắm vậy.


CHƯƠNG VII

Người Âu-châu sang nước Nam

I. SỰ ĐI TÌM ĐẤT

1. Người Âu-châu sang Á-đông

2. Người Âu-châu sang đất Việt-nam

II. SỰ ĐI TRUYỀN GIÁO

1. Đạo Thiên-chúa

2. Đạo Thiên-chúa sang nước Việt-nam

Nguyên người Âu-la-ba đi du-lịch thiên-hạ là vì có hai cớ: một là đi ìm đất để buôn-bán, hai là để truyền-bá tông-giáo Thiên-chúa ở các nước.

1. Sự đi tìm đất.

Người Âu-châu sang Á đông - Từ đời La- mã, đã có sách chép người Âu-châu sang đến nước Tàu, nhưng không rõ cách giao-thiệp ra làm sao; đến thập-tam thế-kỷ mới có ông Marco Polo, người nước I-ta-li sang ở triều nhà Nguyên về đời vua Thế-tổ Tất Liệt hằng 17 năm, rồi sau đi qua Ấn-độ-dương về nước, làm ra quyển sách: "Thế-giới kỳ-quan" (Les merveilles du monde), kể những chuyện ông ấy đã biết.

Về sau vào thập-ngũ thế-kỷ, ông Kha Luân Bố (Christophe Colomb) dùng địa-bàn chỉ nam (boussole) định đi qua Đại-tây dương sang Ấn độ, rồi tìm thấy châu A-mỹ-lị-gia (Amérique); đến năm 1479, người Bồ đào-nha (Portugal) tên là Vasco de Gama đi vòng qua Hảo-vọng-giác (Cap de Bonne Espérance) sang Ấn-độ-dương vào đất Ấn độ. Năm 1521 lại có người Bồ đào-nha tên là Magellan đi qua Ấn độ dương sang Thái-bình-dương vào đất Phi-luật-tân (Philippines).

Từ đó về sau người Bồ đào-nha (Portugal) mới sang Tây-ban-nha (Espagne) và người Hòa-lan (Hollande) mới sang Á đông lấy đất thuộc địa và mở cửa hàng buôn-bán như sau này:

Năm quí-hợi (1563) về đời Gia-tĩnh nhà Minh, người Bồ-đào-nha đến ở đất Áo-môn (Macao) nước Tàu.

Năm mậu-thìn (1568) người Tây-ban-nha sang lấy đất Phi-luật-tân làm thuộc địa.

Năm bính-thân (1596) người Hòa-lan sang lấy đất Trà-và (Java) làm thuộc địa. Về sau dần dần người Bồ-đào-nha, người Pháp-lan-tây (France) và người Anh-cát-lợi (Angleterre) đến ở đất Ấn độ.

Người Âu-châu sang đất Việt-nam. Người Âu-châu sang buôn-bán ở nước ta, thì có người Bồ-đào-nha đến ở xứ Nam trước hết cả, mở cửa hàng ở phố Hội-an (tức là Faifo) thuộc đất Quảng-nam. Ở đấy lại có người Tàu, người Nhật-bản và người Hòa-lan đến buôn-bán nhiều lắm. Sách của ông Maybon và Russier có chép rằng năm giáp dần (1614) đời chúa Sãi đã có người Bồ-đào-nha tên là Jean de la Croix đến lập lò đúc súng ở đất Thuận- hóa, mà bây giờ ở Huế người ta còn gọi chỗ ấy là Phường đúc.

Ở ngoài Bắc thì trước đã có tàu của người Bồ-đào-nha ra vào buôn-bán, nhưng mãi đến năm đinh-sửu (1637) đời vua Thần-tông nhà Lê, Thanh đô- vương Trịnh Tráng mới cho người Hòa-lan đến mở cửa hàng ở Phố-Hiến (gần chỗ tỉnh-lỵ Hưng-yên bấy giờ). Về sau ở đấy có người Nhật-bản, người Tàu, người Tiêm-la đến buôn-bán kể có 2.000 nóc nhà, làm thành ra chỗ vui-vẻ lắm, cho nên tục-ngữ bấy giờ có câu rằng:

" Thứ nhất Kinh-kỳ, thứ nhì Phố-hiến "

Lúc bấy giờ người Bồ-đào-nha sang buôn-bán ở trong Nam nhiều hơn, mà ở ngoài Bắc thì có người Hòa-lan nhiều hơn, nhưng thủa ấy người hai nước ấy hay tranh-cạnh với nhau, bởi thế chúa Trịnh và chúa Nguyễn đều có ý muốn nhân cớ ấy mà nhờ họ giúp mình. Song vì lợi buôn-bán cho nên họ không chịu ra mặt giúp hẳn, thành ra lâu ngày các chúa cũng chán và lại lôi-thôi về việc tông-giáo, cho nên đến năm canh-thìn (1700) đời vua Lê Hi-tông, người Hòa-lan thôi không vào buôn-bán ở ngoài Bắc nữa.

Đời bấy giờ người Anh-cát-lợi và người Pháp-lan-tây cũng vào buôn- bán ở nước ta. Năm nhâm-tí (1672) đời vua Lê Hi-tông, người Anh-cát-lợi đem chiếc tàu Zant vào xin mở cửa hàng buôn-bán, chúa Trịnh cho xuống ở Phố-hiến, nhưng vì sau sự buôn-bán không được thịnh-lợi, người Anh-cát-lợi chỉ ở đến năm đinh-sửu (1697) rồi thôi.

Còn người Pháp-lan-tây thì từ năm canh-thân (1680) đã có tàu vào xin mở cửa hàng ở Phố-hiến; đến năm nhâm-tuất (1682) lại có chiếc tàu Saint Joseph ở Tiêm-la sang đem phẩm-vật dâng chúa Trịnh.

Ở trong Nam thì năm bính-dần (1686) có người Pháp tên là Verret được phép mở cửa hàng ở cù-lao Côn-lôn. Đến năm kỷ-tị (1749) lại có một người Pháp tên là Poivre đi chiếc tàu Machault vào cửa Hội-an, xin vào yết- kiến chúa Nguyễn và dâng tờ quốc-thư cùng phẩm-vật để tỏ tình giao hiếu của hai nước. Chúa Nguyễn cũng đáp thư lại, thuận cho người Pháp vào thông-thương. Nhưng chẳng được bao lâu thì công-ty của Pháp ở Ấn độ bãi đi, cho nên sự thông thương với người Pháp cũng bãi.

2.

Sự đi truyền giáo.

Đạo Thiên-chúa. Nguyên khi xưa toàn xứ Âu-la-ba không có nhất định một tông-giáo nào cả. Mỗi dân-tộc thờ một vị thần riêng của mình. Thường hay lấy cái lực hoạt động của tạo-hóa mà tưởng-tượng ra các vị thần, rồi làm đền, làm đài, để thờ cúng. Như dân- tộc Hi-lạp (Grec) và dân-tộc La-mã (Romain) thờ thần Giu-bi-te (Jupiter), thần A-bô-lông (Apollon) và các vị thần khác vậy. Duy có dân-tộc Do-thái (Juifs) ở đất Tiểu Á-tế-á, nay là đất Palestine đã được độc-lập, chỉ thờ một vị thần gọi là Jéhovah sinh-hóa vạn vật và người; cho nên người chỉ phải thờ một vị thần ấy mà thôi. Đến đời dân La-mã đã kiêm-tính được cả đất Tiểu Á-tế-á, đất bắc A-phi-lị-gia và đất tây-nam Âu-la-ba, dân Do-thái cũng thuộc về La-mã, mà đạo Do-thái bấy giờ cũng đã suy lắm rồi. Lúc ấy đức Gia-tô ra đời, nhân đạo Do-thái mà lập ra đạo mới 113

dạy người lấy sự yêu-mến và tôn-kính Thiên-chúa làm gốc, lấy bụng từ-bi nhân thứ, coi người như anh em ruột thịt làm cốt. Từ đó về sau các môn đồ đem đạo ấy đi truyền-bá các nơi. Ông Saint Pierre thì sang lập giáo đường ở tại Kinh-thành La-mã, ông Saint Paul thì đi truyền đạo ở khắp trong nước.

Lúc đầu đạo Thiên-chúa bị nhiều phen vua La-mã nghiêm-cấm, dùng cực hình mà giết hại các giáo-sĩ và những người theo đạo mới, nhưng dẫu nguy-nan thế nào mặc lòng, các môn đồ cứ một niềm đi truyền đạo khắp bốn phương. Mãi đến đầu đệ-tứ thế-kỷ (313) vua La-mã là Constantin mới cho giảng đạo Thiên-chúa ở mọi nơi trong nước. Từ bấy giờ trở đi đạo Thiên-chúa ở mọi nơi trong nước. Từ bấy giờ trở đi đạo Thiên-chúa một ngày một thịnh, lập Giáo-hoàng để thống-nhất việc giáo, đặt Giám-mục để coi việc giáo ở các nơi, lại sai giáo-sĩ đi truyền đạo khắp trong thiên-hạ: hễ ở đâu có người là có giáo-sĩ đến dạy đạo. Bởi vậy cho nên chẳng bao lâu mà toàn Âu đều theo đạo Thiên-chúa cả.

113

Đạo của ông Gia Tô lập ra cho nên ta thường gọi là đạo Gia Tô, lại vì đạo ấy chỉ thờ Thiên Chúa mà thôi, cho nên lại gọi là đạo Thiên Chúa. Có phái gọi là Cơ đốc bởi chữ Christ là bậc cứu thế.

Bên Á đông ta thì từ đời nhà Đường (618-907) sử chép có Cảnh- giáo 114

tức là một phái Gia-tô-giáo đã sang Tàu, nhưng vì bấy giờ đạo Phật đang thịnh, cho nên đạo Cảnh-giáo mất dần đi. Mãi đến đời nhà Nguyên, nhà Minh mới thật có giáo-sĩ sang giảng đạo Gia-tô ở nước Tàu.

Đạo Thiên-chúa sang nước Nam. Ở nước Nam ta từ khi đã có người Âu-la-ba sang buôn bán, thì tất là có giáo-sĩ sang dạy đạo. Cứ theo sách Khâm định Việt-sử, thì từ năm Nguyên-hòa nguyên-niên đời vua Trang-tông nhà Lê (1533) có người Tây tên là I-nê-khu đi đường bể vào giảng đạo Thiên-chúa ở làng Ninh-cường, làng Quần-anh, thuộc huyện Nam-chân (tức là Nam-trực) và ở làng Trà-lũ, thuộc huyện Giao-thủy.

Sách Nam-sử của Trương vĩnh Ký chép rằng năm bính-thân (1596) đời ông Nguyễn Hoàng có người giáo-sĩ Tây-ban-nha tên là Diego Adverte vào giảng đạo ở trong Nam trước hết cả. Nhưng lúc bấy giờ lại có mấy chiếc tàu Tây-ban-nha cùng đến, chúa Nguyễn sợ có ý quấy-nhiễu gì chăng, bèn đuổi đi.

Đến năm ất-mão (1615) đời chúa Sãi, giáo-sĩ là P. Busomi lại đến giảng đạo, rồi đến năm giáp-tí (1624) có giáo-sĩ tên là Jean Rhodes, người Pháp-lan-tây, đến giảng đạo ở Phú-xuân và lập ra các giáo đường. Năm bính-dần (1626) đời vua Lê Thần-tông, giáo-sĩ là Baldinoti vào giảng đạo ở ngoài Bắc, bị chúa Trịnh không cho, phải bỏ đi. Được ít lâu ông Jean Rhodes ở trong Nam ra Bắc vào yết-kiến chúa Trịnh và đem dâng các đồng- hồ quả lắc, chúa Trịnh cho ông Jean Rhodes được giảng đạo tại Kinh đô.

Từ đó về sau các giáo-sĩ cứ dần dần vào nước dạy đạo, mà người mình càng ngày càng theo đạo cũng nhiều. Nhưng vì nước ta tự xưa đến nay vẫn theo Nho-giáo, lấy sự thờ-cúng ông cha làm trọng, lấy sự tế-tự thần-thánh làm phải, mà lệ nước thì lấy sự cúng-tế làm một việc rất quan- trọng. Đột nhiên thấy nhiều người mình theo đạo Thiên-chúa, bỏ cả các thói cũ, chỉ chuyên về một mặt theo đạo mới, bởi vậy cho nên trong Nam ngoài Bắc, vua chúa đều cho đạo ấy là một tả đạo, làm hủy-hoại cả cái phong-hóa của nước nhà xưa nay, bèn xuống chỉ cấm không cho người trong nước theo đạo mới nữa, và đặt ra phép nghiêm để bắt tội những kẻ không tuân theo chỉ đụ ấy.

Cứ theo trong sử thì năm tân-vị (1631) ở trong Nam, chúa Thượng là Nguyễn-phúc Lan cấm không cho người Tây vào giảng đạo ở trong nước.

114

Cảnh giáo là một phái đạo Gia Tô của người chủ giáo tên là Nestorius lập ra từ đệ ngũ thế kỷ ở Đông La Mã, rồi truyền sang nước Ba Tư (Perse) và nước Tàu.

Năm quí-mão (1663) ở ngoài Bắc, chúa Trịnh là Trịnh Tạc bắt đuổi các giáo-sĩ và cấm không cho người mình theo đạo Gia-tô.

Năm giáp-thìn (1644) chúa Hiền ở miền Nam bắt giết những người đi giảng đạo ở Đà-nẵng.

Năm bính-tí (1696) đời vua Lê Hi-tông, Trịnh Căn bắt đốt phá hết cả những sách đạo và nhà đạo ở các nơi và đuổi những người giảng đạo ra ngoài nước.

Năm nhâm-thìn (1712) đời vua Lê Dụ-tông, Trịnh Cương bắt những người theo đạo Gia-tô phải cạo trán và khắc vào mặt bốn chữ "học Hoa-lan đạo" 115 .

Năm giáp-tuất (1754) đời Cảnh-hưng, Trịnh Doanh lại nghiêm-cấm một cách rất ngặt, không cho người ta đi theo đạo, và lại giết cả các đạo- trưởng và đạo đồ.

Từ đó về sau việc cấm đạo một ngày một nghiêm, mà người đi giảng đạo cũng không lấy luật nước làm sợ, cứ cố sức dụ cho được nhiều người theo đạo. Rồi dần dần người trong nước phân ra bên lương bên giáo, ghen-ghét nhau hơn người cừu địch. Vua quan thì thấy dùng phép thường không cấm được, mới dùng đến cực hình để mà trừng-trị, giết hại bao nhiêu người vô tội.

Tóm lại mà xét, thì giả sử người ngoại quốc vào nước ta mà chỉ có việc buôn bán mà thôi, thì chắc rằng nước ta xưa nay vốn là một nước văn hiến, vua quan ta cũng không có lẽ gì mà ngăn-cấm; nhưng bởi vì khi đã quan-hệ đến việc sùng-tín, thì dù hay dở thế nào mặc lòng, người ta ai cũng cho sự sùng-tín của mình là phải hơn, thành ra không ai khoan dung cho ai, rồi cứ phải dùng thế-lực để mà đè-nén nhau. Cũng vì thế cho nên về sau nước ta không chịu suy-xét lẽ phải-trái cho kỹ-càng, làm lắm sự tàn-ác để đến nỗi mất cả sự hòa-hiếu với các nước ở Tây dương và gây nên cái mối biến-loạn cho nước nhà vậy.

115

Hoa Lan tức là Hòa Lan (Hollande). Người Hòa Lan sang buôn bán ở ngoài Bắc trước hết cả cho nên mới gọi là đạo Hòa Lan. Vả lúc bấy giờ người Việt Nam ta không phân biệt được những nước nào, hễ thấy người Tây thì thường cứ gọi là Hòa Lan CHƯƠNG VIII

Vận Trung Suy của Chúa Nguyễn

1. Trương Phúc Loan chuyên quyền 2. Tây Sơn dấy binh 3. Quân họ Trịnh vào lấy Phú Xuân 4. Chúa Nguyễn vào Gia Định 5. Nguyễn Vương khởi binh đánh Tây Sơn 6. Nguyễn Vương định cầu viện nước Pháp Lan Tây 7. Nguyễn Huệ phá quân Tiêm La

1. Trương Phúc Loan chuyên quyền.

Từ ông Nguyễn Hoàng trở đi, họ Nguyễn làm chúa trong Nam: phía bắc chống nhau với họ Trịnh, phía nam đánh lấy đất Chiêm thành và đất Chân Lạp, truyền đến đời Vũ Vương là Nguyễn Phúc Khoát mới xưng vương hiệu. Vũ Vương định triều nghi, lập cung điện ở đất Phú Xuân, và phong cho người con thứ 9 là Nguyễn Phúc Hiệu làm thế tử.

Năm ất dậu (1765) Vũ Vương mất. Bấy giờ thế tử đã mất rồi, con thế tử là Nguyễn Phúc Dương hãy còn nhỏ, mà người con trưởng của Vũ Vương cũng mất rồi. Tờ di chiếu để lại định lập người con thứ hai lên nối nghiệp chúa 116 . Nhưng khi ấy người quyền thần là Trương Phúc Loan, ý muốn chuyên quyền làm bậy, bèn đổi tờ di chiếu đi mà lập người con thứ 16 của Vũ Vương, mới có 12 tuổi, lên làm chúa, gọi là Định Vương.

Trương Phúc Loan là người tham lam, làm nhiều điều tàn ác, trong nước ai ai cũng oán giận, bởi thế cho nên, ở phía nam thì có Tây Sơn dấy binh đánh phá tại đất Qui Nhơn; ở mặt bắc thì có quân họ Trịnh vào lấy đất Phú Xuân, làm cho cơ nghiệp họ Nguyễn xiêu đổ vậy.

116

Tức là hoàng khảo vua Thế Tổ, sau truy tôn là Hưng Tổ Hiếu Khang Hoàng Đế. 2. Tây Sơn Dấy Binh.

Lúc bấy giờ ở huyện Phù Ly (nay đổi là Phù Cát) đất Quy Nhơn, có người tên là Nguyễn Nhạc khởi binh phản đối với chúa Nguyễn.

Nguyên ông tổ bốn đời của Nguyễn Nhạc là họ Hồ cùng một tổ với Hồ Quý Ly ngày trước, người ở huyện Hưng Nguyên, đất Nghệ An, gặp lúc chúa Trịnh, chúa Nguyễn đánh nhau, bị bắt đem vào ở ấp Tây Sơn 117

thuộc đất Quy Nhơn. Đến đời ông thân sinh là Hồ Phi Phúc dời nhà sang ở ấp Kiên Thành, nay là làng Phú Lạc, huyện Tuy Viễn, sinh được 3 người con: trưởng là Nhạc, thứ là Lữ, thứ ba là Huệ.

Anh em ông Nhạc muốn khởi loạn, mới lấy họ mẹ là Nguyễn để khởi sự cho dễ thu phục nhân tâm, vì rằng đất trong Nam vẫn là đất của chúa Nguyễn.

Nguyễn Nhạc trước làm biện lại ở Vân Đồn, cho nên sau người ta thường gọi là biện Nhạc. Nhưng vì tính hay đánh bạc, tiêu mất cả tiền thuế, sợ phải tội, bỏ đi vào rừng làm giặc. Đến năm tân mão (1771) mới lập đồn trại ở đất Tây Sơn, chiêu nạp quân sĩ, người theo về càng ngày càng đông. Thường hay lấy của nhà giàu cho nhà nghèo, cho nên những kẻ nghèo khổ theo phục rất nhiều.

Thế Nguyễn Nhạc mỗi ngày một mạnh, quân nhà chúa đánh không được. Vả lại Nhạc là một người có can đảm và lắm cơ trí; một hôm định vào lấy thành Qui Nhơn, bèn lập mưu, ngồi vào trong cái cũi, cho người khiêng vào nộp quan Tuần Phủ ở đấy là Nguyễn Khắc Tuyên. Nguyễn Khắc Tuyên tưởng là thật, cho đưa vào trong thành. Đến nửa đêm, Nhạc phá cũ ra, mở cửa thành cho quân mình vào đánh đuổi quan quân đi, giữ lấy thành Qui Nhơn làm chỗ căn bản. Bấy giờ lại có mấy người khách buôn tên là Tập Đình và Lý Tài cũng mộ quân nổi lên theo giúp Tây Sơn. Nguyễn Nhạc chia quân ra làm 5 đồn là: trung, tiền, hậu, tả, hữu, rồi tiến lên đánh lấy đất Quảng Nam. Chẳng bao lâu từ đất Quảng Nghĩa bây giờ vao cho đến Bình Thuận đều thuộc về Tây Sơn cả.

3. Quân Họ Trịnh vào lấy Phú Xuân.

Đang khi trong Nam có quyền thần chuyên chính ở trong, Tây Sơn đánh phá ở ngoài, ở ngoài Bắc chúa Trịnh là Trịnh Sâm biết tình trạng như vậy, bèn sai đại tướng là Hoàng Ngũ Phúc đem thủy bộ hơn 3 vạn quân cùng với Hoàng Phùng Cơ, Hoàng

117

Ấp Tây Sơn nay là đất thôn An Khà và thôn Cửu An thuộc phủ Hoài Nhân. Vì anh em Nguyễn Nhạc khởi nghiệp ở chỗ ấy, nên mới gọi là Tây Sơn. Đình Thể, Hoàng Đình Bảo vào đất Bố Chính để đánh họ Nguyễn, giả nói là vào đánh Trương Phúc Loan.

Đến tháng 10 năm giáp ngọ (1774) quân Hoàng Ngũ Phúc sang sông Linh Giang, sai Hoàng Đình Thể đem binh đến đánh lấy lũy Trấn Ninh, nhờ có nội ứng, cho nên không đánh mà lấy được lũy. Trịnh Sâm được tin Hoàng Ngũ Phúc đã phá được thành Trấn Ninh rồi, bèn quyết kế đem đại binh đi vào tiếp ứng. Đến tháng chạp thì quân của Ngũ Phúc tiến lên đóng ở làng Hồ Xá (thuộc huyện Minh Linh, Quảng Trị) rồi truyền hịch đi nói rằng quân Bắc chỉ vào đánh Trương Phúc Loan mà thôi, chứ không có ý gì khác cả. Các quan ở Phú Xuân bèn mưu bắt Phúc Loan đem nộp.

Hoàng Ngũ Phúc bắt được Trương Phúc Loan rồi, lại tiến binh đến huyện Đăng Xương, sai người đưa thư đến Phú Xuân nói rằng Phúc Loan tuy đã trừ, nhưng mà Tây Sơn hãy còn, vậy xin đem binh đến hội tại Phú Xuân để cùng đi đánh giặc.

Chúa Nguyễn biết mưu Hoàng Ngũ Phúc chực đánh lừa để lấy kinh thành, bèn sai Tôn Thất Tiệp cùng với quan Chưởng cơ là Nguyễn Văn Chinh đem thủy bộ quân ra án ngữ ở sông Bái Đáp Giang (nay gọi là Phu lệ ở huyện Quảng Điền). Hoàng Ngũ Phúc sai Hoàng Đình Thể đem binh đi lên đường núi rồi tiến binh hai mặt đánh ập lại, quân họ Nguyễn vỡ tan bỏ chạy cả, quân Bắc tiến lên lấy thành Phú Xuân, chúa Nguyễn và các quan chạy vào Quảng Nam.

Bấy giờ Trịnh Sâm đóng ở Hà Trung, được tin Hoàng Ngũ Phúc đã lấy được Phú Xuân rồi, mừng lắm, sai quan đưa cho Ngũ Phúc 100 lạng vàng, và cho các tướng sĩ 5000 lạng bạc, lại phong cho Ngũ Phúc làm Đại Trấn Phủ, đất Thuận Hóa để lo việc lấy đất Quảng Nam. Đoạn rồi Trịnh Sâm rút quân về Bắc.

4. Chúa Nguyễn vào Gia Định.

Chúa Nguyễn vào đến Quảng Nam đóng ở Bến Vân, lập cháu là Nguyễn Phúc Dương lên làm đông cung, để lo việc đánh giặc. Được mấy tháng quân Tây Sơn ở Quy Nhơn kéo ra đánh lấy Quảng Nam, quân Chúa Nguyễn đánh không nổi, thua chạy về đóng ở Trà Sơn.

Chúa Nguyễn liệu chừng không chống giữ được, bèn cùng người cháu là ông Nguyễn Phúc Ánh xuống thuyền chạy vào Gia Định, để Đông Cung ở lại Quảng Nam chống giữ với giặc. Đông cung đóng đồn ở làng Câu Để (thuộc huyện Hòa Vinh).

Nguyễn Nhạc biết Đông cung yếu thế, và lại muốn lấy tiếng để mà sai chúng, bèn sai người đi rước Đông cung về đóng ở phố Hội An (Faifo, thuộc Quảng Nam).

Ngay lúc ấy quân của Hoàng Ngũ Phúc đã qua Hải Vân Sơn vào lấy đồn Trung Sơn và đồn Câu Để ở huyện Hòa Vinh, Nguyễn Nhạc sai người khác là Tập Đình làm tiên phong, Lý Tài làm trung quân, tự mình làm hậu tập ra đánh nhau với quân họ Trịnh ở làng Cẩm Sa (thuộc Hòa Vinh). Quân của Tập Đình đều là người khách Quảng Đông và những người mọi to lớn, ai nấy cởi trần ra đội khăn đỏ cầm phang, đeo khiên, đánh thật là hung mạnh. Quân tiền đội của Ngũ Phúc đương không nội, Ngũ Phúc mới sai Hoàng Đình Thể và Hoàng Phùng Cơ đem kỵ binh vào xông trận, rồi bộ binh đánh tràn vào. Tập Đình thua chạy. Nguyễn Nhạc và Lý Tài phải lùi về giữ bến Bản rồi đưa Đông Cung về Quy Nhơn. Tập Đình vốn là người bạo ngược, Nguyễn Nhạc muốn nhân dịp thua trận bắt giết đi. Tập Đình biết ý bỏ chạy về Quảng Đông bị quan nhà Thanh bắt được đem chém.

Lúc bấy giờ ở phía nam có quan Lưu thủ đất Long Hồ là Tống Phúc Hợp đem quân đánh lấy lại được ba phủ là Bình Thuận, Diên Khánh và Bình Khánh, rồi lại tiến binh ra đánh đất Phú Yên; ở phía bắc thì có quân họ Trịnh đóng ở Quảng Nam, Nguyễn Nhạc liệu thế chống không nổi, bèn sai Phan Văn Tuế đem thư và vàng lụa ra nói với Hoàng Ngũ Phúc xin nộp đất Quảng Nghĩa, Quy Nhơn, Phú Yên và xin làm tiền khu đi đánh họ Nguyễn.

Hoàng Ngũ Phúc cũng muốn dùng Nguyễn Nhạc để đánh đất Gia Định, bèn làm biểu xin chúa Trịnh cho Nguyễn Nhạc làm tiên phong tướng quân, Tây Sơn Hiệu trưởng, sai Nguyễn Hữu Chỉnh đem cờ và ấn kiếm vào cho Nguyễn Nhạc.

Nguyễn Nhạc không lo mặt bắc nữa, bèn lập mưu để đánh lấy đất Nam, đem con gái mình là Thọ Hương dâng cho Đông Cung và khoảng đãi một cách rất tôn kính, rồi sai người giả đến nói với Tống Phúc Hợp xin về hàng để lo sự khôi phục lại đất Phú Xuân. Tống Phúc Hợp cho sứ đến xem hư thực, Nguyễn Nhạc đưa Đông Cung ra tiếp, rồi viết thư cho sứ đưa về nói lấy nghĩa phù lập Đông Cung, điện an xã tắc, Tống Phúc Hợp tin là thực tình, không phòng bị gì nữa.

Nguyễn Nhạc biết rõ tình hình, sai em là Nguyễn Huệ đem quân đến đánh Tống Phúc Hợp. Quân họ Nguyễn thua to bỏ chạy về giữ Vân Phong. Nguyễn Nhạc cho người đưa tin thắng trận ra cho Hoàng Ngũ Phúc biết. Ngũ Phúc xin chúa Trịnh phong cho Nguyễn Huệ làm Tây Sơn Hiệu Tiên Phong Tướng Quân.

Quân Hoàng Ngũ Phúc đóng ở Châu Ổ, giáp đất Quảng Nghĩa, đến tháng chạp năm ấy là năm ất tị (1775) bị dịch chết mất nhiều. Ngũ Phúc viết thư ra xin chúa Trịnh cho rút về giữ Thuận Hóa. Trịnh Sâm thuận cho. Hoàng Ngũ Phúc về đến Phú Xuân thì mất, chúa Trịnh sai Bùi Thế Đạt vào thay, và sai Lê Quý Đôn vào làm Tham Thị cùng giữ đất Thuận Hóa.

Đất Thuận Hóa bấy giờ kể từ đất Nam bố chính trở vào là 2 phủ: Triệu Phong và Quảng Bình 118 , 2 huyện, 8 châu. Số nhân đinh được 126.857, số ruộng đất rộng được 265.508 mẫu, nhưng mà trừ đất rừng và các thứ đi, thì còn được 153.181 mẫu phải đóng thuế.

Từ khi quân họ Trịnh lui về Thuận Hóa rồi, đất Quảng Nam lại thuộc về Tây Sơn. Năm bính thân (1776) Nguyễn Nhạc sai em là Nguyễn Lữ đem thủy quân vượt bể vào đánh Gia Định, lấy được thành Sài Côn. Chúa Nguyễn phải chạy về Trấn Biên (tức là Biên Hòa).

Bấy giờ ở Đông Sơn có Đỗ Thành Nhân khởI binh chống với Tây Sơn lấy lại thành Sài Côn. Nguyễn Lữ lấy thóc gạo rồi rút quân về Quy Nhơn.

Nguyễn Nhạc thấy thế mình một ngày một mạnh, bèn sai sửa lại thành Đồ Bàn (là kinh thành cũ của Chiêm Thành ngày trước) rồi đến tháng ba năm bính thân (1776) tự xưng làm Tây Sơn Vương và phong chức tước cho mọi người. Bấy giờ Tây Sơn đem Đông Cung ra ở chùa Thập Tháp. Đông Cung bèn trốn xuống thuyền chạy về Gia Định.

Người khách Lý Tài trước đã bỏ Nguyễn Nhạc theo giúp chúa Nguyễn, rồi sau lại phản lại, đánh chúa Nguyễn, nay nghe Đông cung trốn về, lại đem binh rước về Sài Côn lập lên làm Tân Chính Vương, tôn Định Vương làm Thái Thượng Vương để cùng lo sự khôi phục.

Năm đinh dâu (1777) Nguyễn Nhạc sai người ra xin với chúa Trịnh cho trấn thủ đất Quảng Nam, Trịnh Sâm bấy giờ cũng chán sự dụng binh, bèn nhân dịp phong cho Nguyễn Nhạc làm Quảng Nam trấn thủ, Tuyên Úy đại sứ, Cung Quận Công.

Nguyễn Nhạc được phong rồi, không phải phòng giữa mặt bắc nữa, bèn sai Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ đem thủy bộ quân vào đánh Gia Định. Lý Tài chống khôngh nổi phải bỏ chạy. Tân Chính Vương chạy về bến Trà (thuộc Định Tường) rồi lại chạy về Ba vát (thuộc Vĩnh Long), còn Thái

118

Triệu Phong phủ có 5 huyện; Quảng Bình phủ có 3 huyện 1 châu. Thượng Vương thì chạy về Long Xuyên. Nhưng chẳng bao lậu Nguyễn Huệ đem quân đuổi bắt được cả Thái Thượng Vương và Tân Chính Vương, đem giết đi.

Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ lấy xong đất Gia Định, để tổng đốc Chu ở lại trấn thủ, rồi đem quân về Quy Nhơn. Qua năm sau là năm mậu tuất (1778) Nguyễn Nhạc tự xưng đế hiệu, đặt niên hiệu là Thái Đức, gọi thành Đồ Bàn là Hoàng Đế Thành, phong cho Nguyễn Lữ làm Tiết Chế, Nguyễn Huệ làm Long Nhương Tướng Quân.

5. Nguyễn Vương Khởi Binh Đánh Tây Sơn.

Khi Thái Thượng Vương và Tân Chính Vương bị bắt, thì người cháu Thái Thượng Vương là Nguyễn Phúc Ánh, chạy thoát được. Đến khi Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ về Quy Nhơn rồi, Nguyễn Phúc Ánh lại tụ tập những tôi tớ cũ, khởi binh từ đất Long Xuyên, tiến lên đến Sa đéc, và cùng với quan chưởng dinh là Đỗ Thanh Nhân, quan cai đội Lê Văn Câu 119

và các tướng là Nguyễn Văn Hoằng, Tống Phước Khuông, Tống Phước Lương về đánh đuổi tổng đốc Chu, lấy lại thành Sài Côn. Bấy giờ Nguyễn Phúc Ánh mới có 17 tuổi, các tướng đều tôn làm Đại Nguyên Súy, Nhiếp Quốc Chính.

Được ít lâu vua Tây Sơn lại sai tổng đốc Chu, tư khấu Uy, và quan hộ giá Phạm Ngạn đem quân thủy vào đánh Trấn Biên và Phan trấn cùng các miền ở mặt bể. Đỗ Thanh Nhân đem quân Đông Sơn đánh chém được tư khấu Uy, đuổi được quân Tây Sơn đi, ông Nguyễn Phúc Ánh bèn sai Lê Văn Quân đem binh ra đánh lấy thành Bình Thuận và thành Diên Khánh.

Từ khi khôi phục được đất Gia Định rồi, Nguyễn Phúc Ánh sai sứ sang thông với nước Tiêm La, và lại sai Đỗ Thanh Nhân, Hồ Văn Lân đem binh đi đánh Chân Lạp, lập con Nặc Tôn là Nặc In lên làm vua để Hồ Văn Lân ở lại bảo hộ. Ở đất Gia Định thì ngài sửa sang mọi việc: đặt quan cai trị các dinh, định lệ thu thuế để nuôi binh lính, làm chiến thuyền, tập binh mã để phòng bị việc chiến tranh.

Năm canh tí (1780) Nguyễn Phúc Ánh xưng vương hiệu rồi phong cho Đỗ Thanh Nhân làm chức Ngoại Hữu, Phụ Chính, Thượng Tướng Công, và thăng thưởng cho các tướng sĩ. Nhưng sau vì Đỗ Thanh Nhân cậy công lộng quyền, cho nên Nguyễn Vương mới giết đi. Cũng vì việc ấy cho nên Đông Sơn trước đã hết lòng giúp Nguyễn Vương, sau đều bỏ cả, và lại phản lại, thành ra lôi thôI phải đánh dẹp mãi.

119

Lê Văn Câu là người ở Vĩnh Tường đất Gia Định, trước theo Châu Văn Tiếp sau làm thuộc tướng Đỗ Thanh Nhân.

Tháng 10 năm tân sửu (1781) vua nước Tiêm La là Trịnh Quốc Anh sai tướng là Chất Tri (Chakkri) và Sô Si, hai anh em sang đánh Chân Lạp. Nguyễn Vương sai quan Chưởng cơ là Nguyễn Hữu Thoại và Hồ Văn Lân đem 3000 quân sang cứu. Trong khi quân Nam và quân Tiêm La còn đang chống giữ nhau ở Chân Lạp, thì ở Vọng Các vua nước Tiêm La bắt giam cả vợ con của hai anh em Chất Tri, bởi vậy hai tướng ấy mới giao kết với Nguyễn Hữu Thoại thề phải cứu nhau trong lúc hoạn nạn. Đoạn rồi Chất Tri đem quân về Tiêm La. Ngay lúc ấy ở bên nước Tiêm có giặc nổi lên, vua nước ấy bị ngươi Phan Nha Văn Sản đuổi đi cướp mất ngôi. Chất Trí về đến Vọng Các, sai người đi tìm quốc vương là Trịnh Quốc Anh đem giết đi, và bắt giết cả Phan Nha Văn Sả, rồi tự lập làm vua, xưng là Phật Vương, phong cho em là Sô Si làm đệ nhị vương, cháu là Ma Lạc làm đệ tam vương. Họ Chakkri làm vua đến nay hãy còn, và các vua đều xưng là Rama.

Tháng ba năm nhâm dần (1782) vua Tây Sơn là Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ đem hơn 100 chiếc thuyền vào cửa Cần Giờ, đánh nhau với quân Nguyễn Vương ở Thất Kỳ Giang (tức Ngả Bảy). Trận ấy quân Nguyễn Vương thua to, có người nước Pháp tên là Mạn Hòe (Manuel) làm chủ một chiếc tàu phải đốt tàu mà chết. Nguyễn Vương phải bỏ thành Sài gòn chạy về đất Tam phụ (Ba giồng), rồi ra lánh ở đảo Phú Quốc.

Vua Tây Sơn bình xong đất Gia Định, rút quân về Quy Nhơn, để hàng tướng là Đỗ Nhàn Trập ở lại giữ thành Sài Côn (tức Sài Gòn).

Khi quân Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ về Quy Nhơn rồi, các tướng nhà Nguyễn lại nổi lên đánh quân Tây Sơn. Bấy giờ có Châu Văn Tiếp là người ở Quy Nhơn, nhân lúc loạn, tụ chúng giữ núi Trà Lang (thuộc Phú Yên). Đến khi chúa Nguyễn bỏ Phú Xuân chạy vào Gia Định, Châu Văn Tiếp đem binh ra giúp. Sau chẳng may chúa Nguyễn thất thế ngộ hại, Nguyễn Vương lên nối nghiệp. Văn Tiếp theo giúp, được phong làm chức chưởng cơ, đem binh ra đánh Tây Sơn, bị thua, phải bỏ về giữ Trà Lang. Nay được tin Gia Định lại thất thủ, Văn Tiếp bèn đem quân từ Phú Yên về hợp với quân các đạo, đánh đuổi quân Tây Sơn đi, lấy lại được thành Sài Côn rồi cho người ra Phú Quốc đón Nguyễn Vương về.

Nguyễn Vương về sửa sang mọi việc để chống giữ với Tây Sơn, nhưng qua năm quý mão (1783) vua Tây Sơn lại sai Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ đem binh vào đánh. Nguyễn Vương lại phải rước vương mẫu và cung quyến ra Phú Quốc. Đến tháng 6 năm ấy, Nguyễn Huệ ra đánh Phú Quốc. Nguyễn Vương chạy về Côn Nôn; quân Tây Sơn lại đem thuyền đến vây Côn Nôn; nhưng may nhờ có cơn bão đánh đắm cả thuyền của Tây Sơn, cho nên Nguyễn Vương mới ra khỏi trùng vi, chạy về đảo Cổ Cốt, rồi lại trở về Phú Quốc.

6. Nguyễn Vương Định Cầu Viện Nước Pháp Lan Tây.

Lúc bấy giờ lương thực hết sạch, Nguyễn Vương cùng với những người đi theo phải hái rau và tìm củ chuối mà ăn, thế lực cùng kiệt, thật là nguy nan quá. Nhân vì khi trước Nguyễn Vương có quen một người nước Pháp làm giám mục đạo Gia Tô, tên là Bá Đa Lộc (Pierre Pigneau de Béhaine, évêque d'Adran) khi ấy đang ở đất Chantaboun (thuộc nước Tiêm La), ngài bèn sai người đến bàn việc. Ông Bá Đa Lộc nói nên sang cầu cứu nước Pháp, nhưng phải cho Hoàng Tử đi làm tin thì mới được.

Nguyễn Vương theo lời ấy, ben giao Hoàng Tử Cảnh và cái quốc ấn cho ông Bá Đa Lộc, lại làm tờ quốc thư cho ông ấy được quyền tự tiện sang thương nghị với chính phủ Pháp để xin viện binh.

Tờ quốc thư ấy có 14 khoản, đại lược nói nhờ ông Bá Đa Lộc sang xin nước Pháp giúp cho 1500 quân và tàu bè, súng ống, thuốc đạn, đủ mọi cả thứ. Nguyễn Vương xin nhường cho nước Pháp cửa Hội An (Faifo), đảo Côn Nôn và để riêng cho người nước Pháp được đặc quyền vào buôn bán ở nước Nam 120 .

Nguyễn Vương lại làm một cái thư riêng để dâng cho vua nước Pháp, và sai quan phó vệ úy là Phạm Văn Nhân, quan cai cơ là Nguyễn Văn Liêm theo hộ vệ Hoàng Tử Cảnh bấy giờ mới có 4 tuổi.

Mọi sự đã xếp đặt cả rồi, nhưng vì còn trái mùa gió cho nên ông Bá Đa Lộc chưa khởi hành được. Nguyễn Vương tuy đã nghe lời ông Bá Đa Lộc định sang cầu cứu nước Pháp, nhưng trong bụng chưa quyết hẳn, còn có ý muốn nhờ nước Tiêm La.

Nguyên lúc đánh thua ở Sài Côn, Châu Văn Tiếp chạy sang Tiêm La cầu cứu. Đến tháng 2 năm giáp thìn (1784) vua Tiêm La sai tướng là Chất Si Đa đem thủy quân sang Hà Tiên, tìm Nguyễn Vương để mời sang bàn việc. Nguyễn Vương lại tiếp được mật biểu của Châu Văn Tiếp, cho nên mới đến hội với tướng nước Tiêm, rồi cùng sang Vọng Các xin binh cứu viện.

Tiêm Vương tiếp đãi Nguyễn Vương rất hậu, và sai hai tướng là Chiêu Tăng, Chiêu Sương đem hai vạn quân cùng 300 chiếc thuyền sang

120

Tờ quốc thư này và cái thư của Nguyễn Vương viết cho vua nước Pháp nay hãy còn ở Ngoại Giao Bộ tại Paris. giúp Nguyễn Vương. Quân Tiêm La sang lấy được Rạch Giá, Ba thắc, Trà Ôn, Mân thít, Sa đéc. Khi đánh ở Mân thít, Châu Văn Tiếp bị thương nặng mà mất. Từ đó quân Tiêm ỷ thế đi đến đâu quấy nhiễu dân sự, làm nhiều điều tàn ác, cho nên lòng người oán hận lắm.

7. Nguyễn Huệ Phá Quân Tiêm La.

Tướng Tây Sơn giữ đất Gia Định là Trương Văn Đa, thấy quân Tiêm La sang đánh phá, thế lực mạnh lắm, bèn sai người về Quy Nhơn phi báo. Vua Tây Sơn sai Nguyễn Huệ đem binh vào chống giữ.

Nguyễn Huệ vào đến Gia Định nhử quân Tiêm La đến gần Rạch Gầm và Xoài mút ở phía trên Mỹ Tho, rồi đánh phá một trận, giết quân Tiêm chỉ còn được vài nghìn người, chạy theo đường thượng đạo trốn về nước. Nguyễn Huệ phá được quân Tiêm La rồi, đem binh đuổi đánh Nguyễn Vương. Nguyễn Vương bấy giờ hết cả lương thực, cùng với mấy người chạy về Trấn Giang, ra đảo Thổ Châu, đảo Cổ Cốt, rồi sang Tiêm La.

Đánh dẹp xong, Nguyễn Huệ đem quân về Quy Nhơn để đô đốc là Đặng Văn Chân ở lại trấn đất Gia Định.

Nguyễn Vương biết thế không mong cậy được người Tiêm La, bèn giục ông Bá Đa Lộc đem Hoàng tử đi sang nước Pháp cầu viện. Ông Bá Đa Lộc đi rồi, Nguyễn Vương rước vương mẫu và cung quyến sang trú ở Vọng Các để chờ có cơ hội lại về khôi phục.


CHƯƠNG IX

Họ Trịnh Mất Nghiệp Chúa

1. Chúa Trịnh bỏ trưởng lập thứ 2. Kiêu binh 3. Tây Sơn lấy Thuận Hóa 4. Tây Sơn dứt họ Trịnh

1. Chúa Trịnh bỏ trưởng lập thứ.

Từ khi quân chúa Trịnh lấy được đất Thanh Hóa rồi, Trịnh Sâm đắc chí, càng thêm kiêu hãnh, lại có ý muốn cướp ngôi nhà Lê, bèn sai quan Thị Lang là Vũ Trần Thiệu sang nhà Thanh dâng biểu nói rằng con cháu họ Lê không có ai đáng làm vua nữa, và lại sai quan nội giám đi với Vũ Trần Thiệu đem tiền cũa sang đút lót mà xin phong làm vua. Nhưng sang đến Động Đình Hồ, thì Vũ Trần Thiệu đem tờ biểu đốt đi, rồi uống thuốc độc mà chết, bởi vậy việc cầu phong lại bỏ, không nói đến.

Sau Trịnh Sâm say đắm nàng Đặng Thị Huệ, bỏ con trưởng là Trịnh Khải mà lập người con của Đặng Thị là Trịnh Cán làm thế tử. Từ đó người thì theo Đặng Thị, người thì phò Trịnh Khải, trong phủ chúa chia ra bè đảng.

Tháng chín năm nhâm dần (1782) Trịnh Sâm mất để di chiếu lập Trịnh Cán làm chúa và Huy Quận Công Hoàng Đình Bảo làm phụ chính. Trịnh Cán còn ít tuổi mà lại lắm bệnh, không mấy người chịu phục, bởi vậy cho nên thành sự biến loạn.

2. Kiêu Binh.

Nguyên từ khi họ Trịnh giúp nhà Lê Trung Hưng về sau, đất Kinh Kỳ chỉ dùng lính Thanh, lính Nghệ gọi là ưu binh để làm quan túc vệ.

Những lính ấy thường hay cậy công làm nhiều điều trái phép. Năm giáp dần (1674) đời Trịnh Tạc, lính tam phủ tức là lính Thanh, lính Nghệ đã giết quan Tham Tụng Nguyễn Quốc Trinh và phá nhà Phạm Công Trứ. Năm tân dậu (1741) quân ưu binh lại phá nhà và chực giết quan Tham Tụng Nguyễn Quý Cảnh. Những lúc quân ưu binh làm loạn như vậy, tuy nhà chúa có bắt những đứa thủ xướng làm tội nhưng chúng đã quen thói, về sau hễ hơi có điều gì bất bình, thì lại nổi lên làm loạn.

Đến năm nhâm dần (1782) Trịnh Sâm mất, Đặng Thị và Hoàng Đình Bảo lập Trịnh Cán lên làm chúa. Con trưởng Trịnh Sâm là Trịnh Khải mưu với quân tam phủ để tranh ngôi chúa. Bấy giờ có tên biện lại thuộc đội Tiệp bảo tên là Nguyễn Bằng, người Nghệ An, đứng lên làm đầu, vào phủ chúa đánh ba hồi trống làm hiệu, quân ưu binh kéo đến vây phủ, vào giết Hoàng Đình Bảo, bỏ Trịnh Cán và Đặng Thị Huệ, lập Trịnh Khải lên làm chúa.

Trịnh Khải phong quan tước cho Nguyễn Bằng và trọng thưởng cho quân tam phủ. Từ đó quân ấy một ngày một kiêu, cứ đi cướp phá các nhà, không ai kiềm chế được. Năm giáp thìn (1784) quân tam phủ lại phá nhà quan tham tụng Nguyễn Ly, nhà Dương Khuông và giết Nguyễn Triêm ở trước cửa phủ chúa. Khi bấy giờ Nguyễn Ly chạy thoát được lên Sơn Tây cùng với em là Nguyễn Điều bàn định rước Trịnh Khải ra ngoài, rồi gọi binh các trấn về trừ kiêu binh. Nhưng sự lộ ra, quân kiêu binh vào canh giữ phủ chúa, Trịnh Khải không ra được. Quân ấy lại chia nhau ra giữ các cửa ô. Quân các trấn cũng sợ chúa bị hại đều phải rút về. Từ đó quân kiêu binh kéo nhau hàng trăm hàng nghìn đi cướp phá các làng. Hễ có đứa nào đi lẻ loi thì dân làng lại bắt giết đi, thành ra quân với dân xem nhau như cừu địch, mà các văn thần võ tướng cũng bó tay mà chịu không làm sao được. Sau có quan tham tụng là Bùi Huy Bích dỗ dành mãi mới dần dần hơi yên.

Lúc bấy giờ ở trong đang có kiêu binh làm loạn, ở ngoài Tây Sơn nhân dịp đem quân vào đánh phá, bởi thế cho nên cơ nghiệp họ Trịnh đổ nát vậy.

3. Tây Sơn Lấy Thuận Hóa.

Nguyên khi trước Hoàng Đình Bảo trấn thủ đất Nghệ An, có nhiều thủ hạ giỏi, mà trong bọn ấy có một người ở huyện Chân Lộc, thuộc Nghệ An, tên là Nguyễn Hữu Chỉnh, đỗ hương cống từ lúc 16 tuổi, tục gọi là cống Chỉnh, tính hào hoa, lắm cơ trí, nhiều can đảm, mà lại có tài biện bác. Trước theo Hoàng Ngũ Phúc, thường đi đánh giặc bể, giặc sợ lắm, gọi là chim dữ; sau khi Hoàng Ngũ Phúc mất rồi, Hữu Chỉnh về theo Hoàng Đình Bảo.

Đến khi kiêu binh đã giết Hoàng Đình Bảo rồi, có người đem tin Hữu Chỉnh biết, Hữu Chỉnh vào bàn với quan trấn thủ Nghệ An là Võ Tá Giao để tự lập ở xứ Nghệ, nhưng mà Võ Tá Giao sợ không dám làm, Hữu Chỉnh bèn bỏ vào với vua Tây Sơn là Nguyễn Nhạc.

Nguyên khi trước Nguyễn Hữu Chỉnh theo Hoàng Ngũ Phúc vào đánh Quảng Nam thường vẫn đi lại quen Nguyễn Nhạc, cho nên Nguyễn Nhạc tin dùng, đãi làm thượng tân. Từ đó Nguyễn Hữu Chỉnh bày mưu định kế xin vua Tây Sơn ra đánh Thuận Hóa và đất Bắc Hà.

Vả, từ khi Hoàng Ngũ Phúc mất rồi, Trịnh Sâm sai Bùi Thế Đạt vào trấn thủ đất Thuận Hóa, sau lại sai Phạm Ngô Cầu vào thay Bùi Thế Đạt. Phạm Ngô Cầu là người nhu nhược vô mưu, mà lại có tính tham lam, chỉ lo việc làm giàu, chứ không nghĩ gì đến việc binh. Quan phó đốc thị là Nguyễn Lệnh Tân đã viết thư về bày tỏ mọi lẽ và xin Trịnh Sâm cho tướng khác vào thay Phạm Ngô Cầu. Trịnh Sâm không nghe, lại đòi Nguyễn Lệnh Tân về.

Vua Tây Sơn biết đất Thuận Hoá không phòng bị, bèn sai em là Nguyễn Huệ làm tiết chế, rể là Vũ Văn Nhậm làm tả quân đô đốc, Nguyễn Hữu Chỉnh làm hữu quân đô đốc, đem quân thủy bộ ra đánh Thuận Hóa.

Một hôm Phạm Ngô Cầu thấy một người khách buôn nói thuật số, đến bảo Ngô Cầu rằng: "Hậu vận tướng công phúc lộc nhiều lắm, nhưng năm nay có hạn nhỏ có lẽ phải ốm đau, nên lập đàn làm chay mới được yên lành". Phạm Ngô Cầu nghe lời ấy lập đàn cầu khấn bảy đêm ngày, bắt quân sĩ phải phục dịch không được nghỉ ngơi chút nào. Chợt nghe tin quân Tây Sơn đã lấy được đồn Hải Vân, tướng giữ đồn là Hoàng Nghĩa Hồ đã tử trận, lại thấy báo rằng thủy quân của Tây Sơn đã vào cửa bể, thủy bộ hai mặt đều kéo đến đánh. Ngô Cầu hốt hoảng, từ ở đàn chạy về dinh, gọi binh tướng để chống giữ, nhưng quân lính đều mỏi mệt cả, không ai có lòng muốn đánh.

Phạm Ngô Cầu lại có tính đa nghi. Nguyễn Hữu Chỉnh bèn làm một cái thư đề ngoài gửi cho phó tướng là Hoàng Đình Thể, rủ về hàng Tây Sơn, rồi giả tảng sai người đưa nhầm sang cho Ngô Cầu. Ngô Cầu bắt được thư ấy nghi cho Hoàng Đình Thể nhị tâm. Đến khi quân Tây Sơn đến đánh, Hoàng Đình Thể đem quân bản bộ ra trận đối địch bắn hết thuốc đạn. Ngô Cầu đóng cửa thành lại không ra tiếp ứng. Hoàng Đình Thể cùng hai con và tì tướng là Vũ Tá Kiên đều tử trận cả.

Khi quân Tây Sơn kéo đến đánh thành, Phạm Ngô Cầu kéo cờ trắng mở cửa thành ra hàng. Quân họ Trịnh giữ ở các đồn đều tan vỡ bỏ chạy. Trong mấy ngày mà đất Thuận hóa ra đến Linh Giang đều thuộc về Tây Sơn cả. Bấy giờ là tháng năm năm bính ngọ (1786) đời Cảnh hưng năm thứ 47.

4. Tây Sơn Dứt Họ Trịnh.

Nguyễn Huệ lấy được đất Thuận Hóa rồi, sai người giải Phạm Ngô Cầu về Qui Nhơn định tội phải chém, đoạn rồi Nguyễn Huệ hội các tướng lại bàn sai người ra sửa sang đồn Đồng Hới, và định giữ địa giới cũ ở sông La Hà. Nguyễn Hữu Chỉnh nói rằng: "Ông phụng mệnh ra đánh một trận mà bình được đất Thuận Hóa, uy kinh cả chốn Bắc hà. Phàm cái phép dùng binh, một là thời hai là thế ba là cơ, có ba điều đó đánh đâu cũng được. Bây giờ ở đất Bắc Hà tướng thì lười, quân thì kiêu, triều đình không có kỷ cương gì cả, nếu ông nhân lấy cái uy thanh này, đem binh ra đánh thì làm gì mà không được. Ông không nên bỏ mất cái cơ, cái thời và cái thế ấy". Nguyễn Huệ nói rằng: "Ở Bắc Hà có nhiều nhân tài, không nên coi làm thường". Hữu Chỉnh đáp lại rằng: "Nhân tài Bắc Hà chỉ có một mình Chỉnh, nay Chỉnh đã bỏ đi, thì nước không có ai nữa, xin ông đừng có ngại gì!" Nguyễn Huệ cười mà nói rằng: " Ấy! người khác thì không ngại, chỉ ngại có ông đó thôi!" Hữu Chỉnh thất sắt đi rồi nói rằng: " Tôi tự biết tài hèn, nhưng mà tôi nói thế là có ý tỏ cho ông biết ngoài Bắc không có nhân tài đó thôi". Nguyễn Huệu lấy lời nói ngọt để yên lòng Hữu Chỉnh và bảo rằng: " Nhà Lê làm vua đã mấy trăm năm nay, bây giờ cướp lấy, chưa chắc lòng người đã theo mình." Hữu Chỉnh nói: "Nay Bắc Hà có vua lại có chúa, ấy là một sự cổ kim đại biến. Họ Trịnh tiếng rằng phù Lê, thực là hiếp chế, cả nước không ai phục. Vả xưa nay không ai làm gì để giúp nhà Lê, là chỉ sợ cái thế mạnh đó mà thôi, nay ông mà, phù Lê diệt Trịnh thì thiên hạ ai chẳng theo ông." Nguyễn Huệ nói: "Ông nói phải lắm, nhưng ta chỉ phụng mệnh đi đánh đất Thuận Hóa mà thôi, chứ không phụng mệnh đi đánh Bắc Hà, sợ rồi can tội kiểu mệnh thì làm thế nào ?" Hữu Chỉnh nói: "Kiểu mệnh là tội nhỏ, việc ông làm là công to. Vả làm tướng ở ngoài có điều không cần phải theo mệnh vua, ông lại không biết hay sao?"

Nguyễn Huệ bèn sai Nguyễn Hữu Chỉnh đem thủy binh đi tiên phong vào cửa Đại An đánh lấy kho lương ở bên sông Vị Hoàng. Nguyễn Huệ tự đem binh đi sau, ước với Hữu Chỉnh đến sông Vị Hoàng đốt lửa lên làm hiệu.

Nguyễn Hữu Chỉnh đem quân đi qua Nghệ An, Thanh Hóa, quan trấn thủ là Bùi Thế Toại và Tạ Danh Thùy không ai dám ra cự địch; khi ra đến Vị Hoàng, quan coi đồn ở đấy bỏ chạy. Hữu Chỉnh lấy được hơn trăm vạn hộc lương, rồi đốt lửa làm hiệu, quân Nguyễn Huệ kéo đến đóng giữ ở đấy.

Trước kia thành Phú Xuân đã vỡ rồi, tin báo đến Thăng Long, các quan bàn rằng: xứ ấy vẫn không là đất của triều đình, bây giờ mất cũng không hại gì. Vì thế, chỉ sai Trịnh Tự Quyền đem 27 cơ vào giữ đất Nghệ An. Trịnh Tự Quyền thu xếp hơn 10 ngày chưa xong, đến khi đi được độ 30 dặm thì đã có tin báo Tây Sơn đến đóng ở sông Vị Hoàng rồi. Tự Quyền bèn đem quân xuống giữ ở mặt Kim Động. Quan trấn thủ Sơn Nam là Bùi Thế Dận đem bộ binh xuống đóng ở xã Phù Sa, thuộc huyện Đông An. Đinh Tích Nhưỡng đem thủy quân ra giữ cửa Luộc Bấy giờ gió Đông Nam thổi to, đến đêm Nguyễn Huệ sai lấy tượng gỗ để lên trên mấy chiếc thuyền rồi đánh trống kéo cờ thả thuyền cho trôi đi. Đinh Tích Nhưỡng trông thấy tưởng là quân Tây Sơn đến đánh, giàn thuyền ra trận thành chữ nhất, rồi truyền lấy súng mà bắn. Bắn mãi, sau mới biết người trên thuyền là tượng gỗ. Lúc quân Tây Sơn tiến lên đánh, thì Đinh Tích Nhưỡng hết cả thuốc đạn, phải bỏ thuyền mà chạy. Quân của Bùi Thế Dận và Trịnh Tự Quyền cũng tan cả. Nguyễn Huệ hạ được thành Sơn Nam rồi, rồi một mặt truyền hịch đi các lộ nói lấy nghĩa phù Lê diệt Trịnh, một mặt kéo quân lên lấy Thăng Long.

Bấy giờ ở kinh thành thì quân kiêu binh không sai khiến được, mà quân Tây Sơn thì đã đến nơi rồi. Trịnh Khải mới cho gọi Hoàng Phùng Cơ, ở Sơn Tây về, đem quân đóng ở hồ Vạn Xuân (xã Vạn Phú, Thanh Trì) còn thủy binh thì đóng ở bến Tây Long (Thọ Xương) để phòng giữ. Quân Tây Sơn tiến lên đánh tan thủy quân của nhà Trịnh, Hoàng Phùng Cơ phải bỏ chạy. Trịnh Khải mặc áo nhung y cầm cờ lên voi thúc quân vào đánh, nhưng thế Tây Sơn mạnh lắm, đánh không được, Trịnh Khải bỏ chạy lên Sơn Tây. Đi đến làng Hạ Lôi, huyện Yên Lãng, gặp tên Nguyễn Trang đánh lừa bắt đem nộp cho Tây Sơn. Trịnh Khải về đến làng Nhất Chiêu lấy gươm cắt cổ tự tận. Bấy giờ là năm bính ngọ (1786). Nguyễn Huệ cho lấy vương lễ mà tống táng cho chúa Trịnh, rồi vào thành Thăng Long yết kiến vua Lê.

Họ Trịnh giúp nhà Lê trung hưng lên, rồi giữ lấy quyền chính, lập ra nghiệp chúa, lưu truyền từ Trịnh Tùng đến Trịnh Khải được 216 năm (1570- 1786) đến đấy là hết.

CHƯƠNG X

Nhà Hậu Lê Mất Ngôi Vua

1. Tây Sơn rút quân về Nam 2. Nguyễn Hữu Chỉnh chuyên quyền ở đất Bắc 3. Tây Sơn lấy đất Bắc Hà

1. Tây Sơn Rút Quân Về Nam.

Nguyễn Huệ đã dứt được họ Trịnh rồi, vào thành Thăng Long, xuống lệnh cấm quân lính không được cướp phá dân gian, và định ngày xin yết kiến vua Lê ở đền Vạn Thọ.

Bấy giờ vua Hiển Tông đang đau, không ngồi dậy tiếp được, ngài mời Nguyễn Huệ vào ngồi gần sập ngự, lấy lời ôn tồn mà phủ dụ. Nguyễn Huệ tâu bày cái lẽ đem binh rà phù Lê diệt Trịnh, chứ không dám có ý dòm ngó gì. Vua mừng rỡ mà tạ Nguyễn Huệ.

Khi quân Tây Sơn ra đến Thăng Long, các quan triều thần chạy trốn cả, chỉ còn có mấy người nội giám ở lại hầu hạ vua. Nguyễn Hữu Chỉnh thấy vậy vào tâu với vua xin xuống chiếu tuyên triệu các quan về triều; được mấy hôm có độ mươi người lục tục kéo nhau trở về. Vua bèn định đến ngày mồng 7 tháng 7 lập đại trào ở điện Kính Thiên, Nguyễn Huệ đem các tướng và lạy và dâng sổ quân sĩ, dân đinh, để tỏ rõ cái nghĩa tôn phù nhất thống, nghĩa là tự đó về sau nhà Lê có quyền tự chủ.

Vua phong cho Nguyễn Huệ làm Nguyên Soái Uy Quốc Công, và lại gả cho bà Ngọc Hân Công Chúa là con gái của ngài. Chẳng bao lâu vua Hiển Tông mất, Hoàng Tôn là Duy Kỳ lên nối ngôi, đặt niên hiệu là Chiêu Thống.

Nguyên lúc trước vua Tây Sơn là Nguyễn Nhạc vốn không có ý ra đánh Bắc Hà, đến khi tiếp được thư của Nguyễn Huệ nói sắp ra đánh ngoài Bắc, Nguyễn Nhạc vội vàng sai người ra Thuận Hóa ngăn lại. Nhưng khi sứ thần ra đến nơi, thì Nguyễn Huệ đã cử binh đi rồi. Sau lại tiếp được thư nói rằng quân Tây Sơn đã lấy được Thăng Long rồi, và còn phải ở lại để giúp nhà Lê. Nguyễn Nhạc sợ em ở lâu ngoài Bắc Hà có sự biến chăng, bèn đem 500 quân ra Thuận Hóa, rồi lấy thêm 2000 quân, đi không kỳ ngày đêm ra Thăng Long.

Vua Chiêu Thống được tin vua Tây Sơn ra Bắc, bèn đem bách quan ra đón ở ngoài Nam Giao. Nhưng Nguyễn Nhạc cứ đi thẳng, rồi cho người đến nói rằng: xin để ngày khác tiếp kiến. Được mấy hôm Nguyễn Nhạc mời vua Chiêu Thống sang phủ đường là lễ tương kiến. Nguyễn Nhạc ngồi giữa, vua Chiêu Thống ngồi bên tả, Nguyễn Huệ ngồi bên hữu, các quan văn võ đứng hầu hai bên.

Khi vào làm lễ xong rồi, vua Chiêu Thống xin nhường mấy quận để khao quân. Nguyễn Nhạc nói rằng: "Vì họ Trịnh hiếp chế, cho nên chúng tôi ra giúp nhà vua; nếu bằng đất nước họ Trịnh thì một tấc cũng không để lại, nhưng mà của nhà Lê thì một tấc cũng không dám lấy. Xin mong nhà vua gắng sức làm việc, giữ yên cõi đất, để đời đời giao hiếu với nhau, ấy là cái phúc của hai nước đấy."

Đoạn rồi vua Chiêu Thống về điện, hôm sau anh em Tây Sơn bàn rút quân về Nam, và thấy Nguyễn Hữu Chỉnh là người giảo quyệt, định bỏ lại ở Bắc Hà, bèn mật truyền cho các tướng thu xếp quân thủy bộ, kho tàng có gì lấy hết, rồi đến nửa đêm ngày 17 tháng 8, kéo quân về Nam. Sáng hôm sau Nguyễn Hữu Chỉnh biết Tây Sơn về rồi, sợ hãi lắm, hoảng hốt bỏ cả đồ đạc, chạy xuống chiếc thuyền buôn vào Nghệ An, theo vua Tây Sơn. Nguyễn Nhạc thấy Hữu Chỉnh lại theo về, không nỡ bỏ, cho ở lại cùng với Nguyễn Duệ giữ đất Nghệ An.

Bấy giờ quyền bính ở đất Bắc Hà về cả vua nhà Lê, thật là một cơ hội ít có để lập lại cái nền tự chủ của nhà Lê, nhưng tiếc vì vua Chiêu Thống không có tài quyết đoán, mà đình thần lúc bấy giờ không có ai là người biết kinh luân: hễ thấy có giặc thì bỏ chạy, giặc đi rồi thì kéo nhau ra bàn ngược bàn xuôi, người thì định lập lại nghiệp chúa, kẻ thì muốn tôn phù nhà vua. Lại có dòng dõi họ Trịnh là Trịnh Lệ và Trịnh Bồng chia đảng ra đánh nhau để tranh quyền. Vua Chiêu Thống bất đắc dĩ phải phong cho Trịnh Bồng làm Án Đô Vương, lập lại phủ Chúa. Đảng họ Trịnh lại toan đường hiếp chế nhà vua, vua Chiêu Thống phải xuống mật chiếu vời Nguyễn Hữu Chỉnh ra giúp.

2. Nguyễn Hữu Chỉnh Chuyên Quyền ở Đất Bắc.

Nguyễn Hữu Chỉnh từ khi trở về Nghệ An, chiêu mộ dũng sĩ, ngày đêm luyện tập, nhân có chiếu nhà vua gọi vào, bèn thu xếp được hơn một vạn quân ra giúp vua Lê. Trịnh Bồng đem quân ra chống giữ, đánh thua phải bỏ chạy. Hữu Chỉnh vào yết kiến vua Chiêu Thống và chuyên giữ binh quyền.

Trịnh Bồng có khởi binh mấy lần để toan sự khôi phục, nhưng không thành co6ng, cho nên cũng chán sự đời bèn bỏ đi tu, về sau không biết chết ở đâu. Họ Trịnh mất từ đấy.

Nguyễn Hữu Chỉnh đánh đuổi họ Trịnh đi rồi, vua phong cho chức Đại Tư Đồ Bằng Trung Công. Từ đó Hữu Chỉnh cậy công khinh người, làm lắm điều trái phép, vua cũng lấy làm lo. Nhưng không biết trông cậy vào ai, cho nên đành phải chịu vậy.

3. Tây Sơn Lấy Đất Bắc Hà.

Ở trong Nam thì từ khi vua Tây Sơn là Nguyễn Nhạc về Quy Nhơn rồi, tự xưng làm Trung ương Hoàng Đê, phong cho Nguyễn Lữ làm Đông Định Vương ở đất Gia Định, cho Nguyễn Huệ làm Bắc Bình Vương, ở đất Thuận Hóa, lấy Hải Vân Sơn làm giới hạn.

Được ít lâu Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ có chuyện hiềm khích với nhau, Nguyễn Huệ đem binh vào vây đánh thành Qui Nhơn, ngặt đế nỗi Nguyễn Nhạc phải thân lên thành mà kêu khóc, gọi Nguyễn Huệ mà bảo rằng: " Nỡ lòng nào lại nồi da nấu thịt như thế" 121

- Nguyễn Huệ động lòng mới giải vây rút quân về Thuận Hóa.

Trong khi anh em Tây Sơn đánh nhau, thì Nguyễn Hữu Chỉnh ra Bắc Hà, đến khi anh em Tây Sơn đã giảng hòa rồi, Nguyễn Huệ ở Phú Xuân thấy Hữu Chỉnh lừng lẫy ở đất Bắc, bèn sai Vũ Văn Nhậm ra bắt.

Tháng 11 năm đinh tị (1787) Vũ Văn Nhậm phá quân Nguyễn Hữu Chỉnh ở Thanh Quyết Giang (làng Thanh Quyết, huyện Gia Viễn), và ở Châu Cầu ( phủ Lý Nhân) rồi đánh đuổi ra đến Thăng Long.

Vua Chiêu Thống thấy quân của Nguyễn Hữu Chỉnh đã thua rồi, bèn bỏ Kinh đô, chạy sang Kinh bắc, và sai Lê Quýnh cùng với hơn 30 người tôn thất đem bà Hoàng Thái Hậu, bà Hoàng Phi và Hoàng Tử lên Cao Bằng. Còn vua thì cùng với Hữu Chỉnh về đóng ở núi Mục Sơn ở đất Yên Thế.

Tướng Tây Sơn là Nguyễn Văn Hòa đem binh lên đánh bắt được Hữu Chỉnh đem về làm tội ở Thăng Long.

Vũ Văn Nhậm giết Nguyễn Hữu Chỉnh rồi, cho đi tìm vua Chiêu Thống không được, bèn tôn Sùng Nhượng Công tên là Lê Duy Cẩn lên làm giám quốc để thu phục lòng người.

Bấy giờ các quan không ai theo, Sùng Nhượng Công ở trong điện chỉ có vài người hoàng thân và mấy viên võ tướng, sớm tối hầu hạ, còn thì

121

Tục người trong Bình Định hễ ai đi săn được hươu nai gì thì lột da ra làm nồi mà nấu thịt: ở đây Nguyễn NHạc có ý nói rằng cùng da cùng thịt nỡ nào hại lẫn nhau vậy. không ai tâu hỏi việc gì cả. Ngày ngày cứ đi bộ sang chầu chực bên dinh Vũ Văn Nhậm. Văn Nhậm cũng không biết xử làm sao. Người kinh thành thấy vậy gọi Sùng Nhượng Công là thầy đề lại giám quốc. Khi Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ sai Vũ Văn Nhậm ra đánh Nguyễn Hữu Chỉnh thì đã có lòng nghi Vũ Văn Nhậm, cho nên lại sai Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân làm tham tán quân vụ để chia bớt binh quyền. Đến khi Văn Nhậm lấy được Thăng Long, bắt được Hữu Chỉnh rồi, có ý cậy tài và ra bộ kiêu ngạo. Ngô Văn Sở đem ý ấy viết thư về nói Vũ Văn Nhậm muốn làm phản. Bắc Bình Vương lập tức truyền lện kéo quân kỵ, đêm ngày đi gấp đường ra Thăng Long, nửa đêm đến nơi bắt Vũ Văn Nhậm giết đi, rồi truyền gọi các quan văn võ nhà Lê cho vào yết kiến, đặt quan lục bộ và các quan trấn thủ, để Lê Duy Cẩn làm giám quốc, chủ trương việc tế lễ, dùng Ngô Thời Nhậm làm Lại Bộ Tả Thị Lang. Còn các quan nhà Lê thì có người ở lại nhận chức, có người trốn đi, cũng có người tuẩn tiết.

Bắc Bình Vương đã đổi đặt quan quân, chỉnh đốn mọi việc xong cả rồi, chọn ngày về Nam, để bọn Ngô Văn Sở ở lại giữ đất Bắc Hà.

Vua Chiêu Thống từ khi thua trận Mục Sơn chạy về núi Bảo Lộc, rồi nay ở Hải Dương, mai ở Sơn Nam, cùng với mấy người trung nghĩa lo sự khôi phục, nhưng vì thế lực mỗi ngày một kém, bề tôi như bọn Đinh Tích Nhưỡng thì giở mặt làm phản, còn thì ai nấy trốn tránh đi mất cả, bởi thế cho nên cơ nghiệp nhà Lê đổ nát vậy.

Nhà Lê kể từ vua Thái Tổ khởi nghĩa, đánh đuổi quân nhà Minh về Tàu, lập lại cái nền tự chủ cho nước nhà, truyền đến vua Chiêu Tông thì họ Mạc cướp mất ngôi. Sau nhờ có họ Nguyễn và họ Trịnh giúp đỡ, nhà Hậu Lê lại trung hưng lên, truyền đến vua Chiêu Thống tức là Mân Đế thì hết.

Nhà Lê làm vua, kể cả Tiền Lê và Hậu Lê, được 360 năm (1428- 1788), trước sau sửa sang được nhiều việc: sự học hành, việc luật pháp, việc canh nông đều được mở mang ra hơn trước. Nhưng từ khi trung hưng lên trở về sau nhà vua bị họ Trịnh hiếp chế thành ra có vua lại có chúa. Vua ngồi làm vì, chúa giữ cả quyền chính trị. Đến khi nghiệp chúa suy thì ngôi vua cũng đổ vậy.

CHƯƠNG XI

Nhà Nguyễn Tây Sơn

1. Nhà Nguyễn Tây Sơn dấy nghiệp 2. Vua Quang Trung 3. Tôn Sĩ Nghị đem quân sang Việt Nam 4. Vua Quang Trung đại phá quân nhà Thanh 5. Vua Quang Trung cầu phong 6. Vua Chiêu Thống nhà Lê bị nhục bên Tàu 7. Đức độ vua Quang Trung 8. Chính Trị của vua Quang Trung 9. Quan Chế 10. Việc Dinh Điền 11. Việc Học Hành 12. Việc làm chùa chiền 13. Việc định đánh Tàu 14. Vua Quang Trung mất 15. Vua Cảnh Thịnh

1. Nhà Nguyễn Tây Sơn Dấy Nghiệp.

Những người làm quốc sử nước Tàu và nước ta thường chia những nhà làm vua ra chính thống và ngụy triều. Nhà nào, một là đánh giặc mở nước, sáng tạo ra cơ nghiệp, hai là được kế truyền phân minh, thần dân đều phục, ba là dẹp loạn yên dân, dựng nghiệp ở đất trung nguyên, thì cho là chính thống. Nhà nào, một là làm tôi cướp ngôi vua, làm sự thoán đoạt không thành, hai là xưng đế, xưng vương ở chỗ rừng núi, hay là ở đất biên địa, bà là những người ngoại chủng vào chiếm nước làm vua, thì cho là ngụy triều.

Vậy nay lấy những lẽ ấy mà xét xem nên cho nhà Nguyễn Tây Sơn làm chính thống hay ngụy triều, để cho hợp lẽ công bằng và cho xứng cái danh hiệu những người anh hùng đã qua.

Nguyên nước ta là nước quân chủ, lấy cái nghĩa vua tôi làm trọng hơn cả, thế mà từ khi nhà Lê trung hưng lên trở về sau, họ Nguyễn hùng cứ phương Nam, họ Trịnh xưng chúa miền Bắc; trên tuy còn tôn vua nhưng mà quyền về cả nhà chúa. Trong nước ta đã có vua lại có chúa, làm thành ra vua không phải là vua, tôi không phải là tôi, ấy là một thời loạn. Đến sau ở trong Nam thì có Trương Phúc Loan chuyên quyền làm bậy, ở ngoài Bắc thì có kiêu binh làm loạn, giết hại quan đại thần, vua chúa phải nhún mình mà chiều đãi, đình thần phải khoanh tay mà chịu một bề, ấy lại là một lúc đại loạn vậy.

Lúc ấy anh em Nguyễn Nhạc là người dân mặc áo vải, dấy binh ở ấp Tây Sơn, chống nhau với chúa Nguyễn để lập nghiệp ở đất Quy Nhơn. Tuy rằng đối với họ Nguyễn là cừu địch, nhưng mà đối với nước Nam, thì chẳng qua cũng là một người anh hùng lập thân trong lúc biến loạn đó mà thôi.

Còn như Nguyễn Huệ là vua Thái Tổ nhà Nguyễn Tây Sơn, thì trước giúp anh bốn lần vào Gia Định đều được toàn thắng, phá hai vạn quân hùm beo của Tiêm La, chỉ còn được mấy trăm người lủi thủi chạy về nước; sau lại ra Bắc Hà, dứt họ Trịnh; tôn vua Lê, đem lại mối cương thường cho rõ ràng. Ấy là đã có sức mạnh mà lại biết làm việc nghĩa vậy.

Nhưng vì vua nhà Lê nhu nhược, triều thần lúc bấy giờ không ai có tài kinh luân, lại để cho Trịnh Bồng và Nguyễn Hữu Chỉnh nối nhau mà chuyên quyền, đến nỗi thành ra tán loạn. Dẫu thế mặc lòng, khi Nguyễn Huệ giết Vũ Văn Nhậm rồi, không nỡ dứt nhà Lê, đặt Giám Quốc để giữ tông miếu tiền triều; như thế thì cách ở với nhà Lê không lấy gì làm bạc.

Sau vua Chiêu Thống và bà Hoàng Thái Hậu đi sang kêu cầu bên Tàu, vua nhà Thanh nhân lấy dịp ấy mượn tiến cứu nhà Lê, để lấy nước Nam, bèn sai binh tướng sang giữ thành Thăng Long. Bấy giờ cứ theo như tờ mật dụ của vua nhà Thanh thì nước Nam ta, bề ngoài tuy chưa mất hẳn, nhưng kỳ thật đã vào tay người Tàu rồi.

Vậy nước đã mất, thì phải lấy nước lại, ông Nguyễn Huệ mới lên ngôi Hoàng Đế, truyền hịch đi các nơi, đường đường chính chính, đem quân ra đánh một trận phá 20 vạn quân Tàu, tướng nhà Thanh là Tôn Sĩ Nghị phải bỏ cả ấn tín mà chạy, làm cho vua tôi nước Tàu khiếp sợ, tướng sĩ nhà Thanh thất đảm. Tưởng từ xưa đến nay nước ta chưa có võ công nào lẫm liệt như vậy.

Vả đánh đuổi người Tàu đi lấy nước lại mà làm vua thì có điều gì mà trái đạo? Há lại chẳng hơn nhà Lý, nhà Trần nhân lúc ấu quân, nữ chúa, mà làm sự thoán đoạt hay sao? Vậy thì lấy lẽ gì mà gọi là ngụy? Huống chi sau vua nhà Thanh cũng công nhận cho ông Nguyễn Huệ làm vua nước Nam, và lại sai sứ sang phong cho ông làm An Nam Quốc vương theo như lệ các triều trước, như thế thì nhà Nguyễn Tây Sơn mở nước có khác gì nhà Đinh và nhà Lê không?

Tuy rằng chẳng được bao lâu nhà Nguyễn Tây Sơn sinh ra nội loạn, vua Thế Tổ Cao Hoàng nhà Nguyễn lại thu phục được cơ nghiệp cũ mà nhất thống cả nam bắc lại làm một, nhưng việc thành bại hưng vong là mệnh trời, vả lại khi hai người anh hùng đuổi một con hươu, tất là người nọ gọi người kia là cừu địch. Vậy lấy lẽ tôn bản triều mà xét thì nhà Nguyễn Tây Sơn là ngụy, mà lấy công lý mà suy thì vua Quang Trung Nguyễn Huệ là một ông vua cùng đứng ngang vai với vua Đinh Tiên Hoàng, vua Lê Thái Tổ, mà nhà Nguyễn Tây Sơn cũng là một nhà chính thống như nhà Đinh và nhà Lê vậy.

2. Vua Quang Trung (1788-1792).

Ông Nguyễn Huệ (sau đổi tên là Nguyễn Quang Bình) là một người có sức khỏe tuyệt trần, lại có mưu trí quyền biến, mẹo mực như thần, khởi binh ở đất Tây Sơn (thuộc huyện An Khê, Bình Định) giúp anh là Nguyễn Nhạc lập nên nghiệp lớn, được phong làm Bắc Bình Vương, đóng đô ở đất Phú Xuân.

Năm mậu thân (1788) quân nhà Thanh mượn tiếng sang cứu nhà Lê, chiếm giữ thành Thăng Long, có ý muốn lấy đất An Nam, Bắc Bình Vương lên ngôi Hoàng Đế đặt niên hiệu là Quang Trung, rồi đem binh đi đánh giặc.

3. Tôn Sĩ Nghị Đem Quân Sang An Nam.

Nguyên vua Chiêu Thống đã mấy lần toan sự khôi phục, nhưng không được, phải nương náu ở đất Lạng Giang; còn bà Hoàng Thái Hậu thì đem hoàng tử sang Long Châu kêu van với quan Tàu, xin binh cứu viện. Bấy giờ quan tổng đốc Lưỡng Quảng là Tôn Sĩ Nghị dâng biểu tâu với vua Càn Long nhà Thanh, đại lược nói rằng: "Họ Lê là cống thần nước Tàu, nay bị giặc lấy mất nước, mẹ và vợ Tự quân sang cầu cứu, tình cũng nên thương. Vả nước Nam vốn là đất cũ của nước Tàu, nếu sau khi cứu được nhà Lê, và lại lấy được đất An Nam, thực là lợi cả đôi đường."

Vua Càn Long nghe lời tâu ấy sai Tôn Sĩ Nghị khởi quân bốn tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Quý Châu, Vân Nam, đem sang đánh Tây Sơn. Tôn Sĩ Nghị chia quân ra làm 3 đạo, sai quan tổng binh tỉnh Vân Nam và Quý Châu đem một đạo sang mạn Tuyên Quang 122 , sai Sầm Nghi Đống là tri phủ Điền Châu đem một đạo sang mạn Cao Bằng. Sĩ Nghị cùng với đề đốc là Hứa Thế Hanh đem một đạo sang mạn Lạng Sơn, hẹn ngày tiến binh sang đánh An Nam.

122

Khi xưa đất Hà Giang, Lao Kay, Yên Báy thuộc về địa hạt tỉnh Tuyên Quang.

Tướng Tây Sơn là Ngô Văn Sở ở Thăng Long được tin quân Tàu đã sang, sợ thế yếu đánh không nổi, bèn rút quân thủy bộ về đóng giữ từ núi Tam Điệp 123

ra đến bờ bể, rồi sai người về Phú Xuân cáo cấp.

Tôn Sĩ Nghị kéo quân đến Kinh Bắc (Bắc Ninh), vua Chiêu Thống ra chào mừng rồi theo quân Tàu về Thăng Long. Sĩ Nghị đóng đồn ở giữa bãi, về mé nam sông Nhị Ha, bắc cầu phao ở giữa sông để tiện đi lại, và chia quân ra giữ các mặt.

Ngày hôm sau, Sĩ Nghị là lễ tuyên độc tờ sắc của vua nhà Thanh phong cho vua Chiêu Thống làm An Nam Quốc Vương.

Vua Chiêu Thống tuy đã thụ phong, nhưng các tờ văn thư đều phải đề niên hiệu Càn Long. Mỗi khi buổi chầu xong rồi, lại đến dinh Sĩ Nghị để chầu chực việc cơ mật quân quốc. Vua cưỡi ngựa đi với độ mười người lính hầu mà thôi. Sĩ Nghị thì ngạo nghễ, tự đắc, ý tứ xử với vua rất là khinh bạc; có khi vua Chiêu Thống lại hầu, không cho vào yết kiến, chỉ sai một người đứng dưới gác chiêng truyền ra rằng: không có việc quân quốc gì, xin ngày hãy về cung nghỉ.

Người bấy giờ bàn riêng với nhau rằng: "Nước Nam ta từ khi có đế vương đến giờ, không thấy vua nào hèn hạ đến thế. Tiếng là làm vua mà phải theo niên hiệu vua Tàu, việc gì cũng phải bẩm đến quan Tổng Đốc, thế thì có khác gì đã là nội thuộc rồi không?"

Vua và triều thần bấy giờ việc gì cũng trông cậy vào Tôn Sĩ Nghị; ngày đêm chỉ lo việc báo ân báo oán, giết hại những người trước đã đi theo Tây Sơn. Tôn Sĩ Nghị thì càng ngày càng kiêu ngạo thêm, coi việc binh làm thường, lại thả quân lính ra cướp phá dân gian, làm lắm sự nhũng nhiễu. Vì thế cho nên lòng người mất cả trông cậy.

4. Vua Quang Trung Đại Phá Quân Thanh.

Bắc Bình Vương được tinh quân nhà Thanh đã sang đóng ở Thăng Long, lập tức hội các tướng sĩ để bàn việc đem binh ra đánh, các tướng đều xin hãy chính ngôi tôn, để yên lòng người rồi sẽ khởi binh.

Bắc Bình Vương bèn sai đắp đàn ở núi Bàn Sơn, ngày 25 tháng mười một năm mậu thân (1788), Vương làm lễ lên ngôi Hoàng Đế, rồi tự mình

123

Núi Tam Điệp trước gọi là đèo Ba Dội ở chỗ phân biệt địa giới tỉnh Ninh Bình và tỉnh Thanh Hóa. thống lĩnh thủy bộ đại binh ra đánh giặc Thanh. Ra đến Nghệ An nghỉ lại 10 ngày để kén lấy thêm binh, cả thảy được 10 vạn quân và hơn 100 con voi.

Vua Quang Trung điểm duyệt quân sĩ, truyền dụ nhủ bảo mọi người phải cố gắng đánh giặc giúp nước. Đoạn rồi kéo quân ra Bắc, đến ngày 20 tháng chạp thì đến núi Tam Điệp. Bọn Ngô Văn Sở, Ngô Thì Nhiệm đều ra tạ tội, kể chuyện quân Tàu thế mạnh, sợ đánh không nổi, cho nên phải lui về giữ chỗ hiểm yếu.

Vua Quang Trung cười mà nói rằng: "Chúng nó sang phen này là mua cái chết đó thôi. Ta ra chuyến này thân coi việc quân đánh giữ, đã định mẹo rồi, đuổi quân Tàu về chẳng qua 10 ngày là xong việc. Nhưng chỉ nghĩ chúng là nước lớn gấp 10 nước ta, sau khi chúng thua một trận rồi, tất chúng lấy làm xấu hổ, lại mưu báo thù, như thế thì đánh nhau mãi không thôi, dân ta hại nhiều, ta sao nỡ thế. Vậy đánh xong trận này, ta phải nhờ Thì Nhiệm dùng lời nói cho khéo để đình chỉ việc chiến tranh. Đợi mươi năm nữa, nước ta dưỡng được sức phú cường rồi, thì ta không cần phải sợ chúng nữa."

Vua Quang Trung truyền cho tướng sĩ ăn tết Nguyên Đán trước, để đến hôm trừ tịch thì cất quân đi, định ngày mồng 7 tháng giêng thì vào thành Thăng Long mở tiệc ăn mừng. Đoạn rồi, truyền lệnh cho ba quân đến nghe lệnh điều khiển.

Đại tư mã Sở, Nội Hầu Lân đem tiền quân đi làm tiên phong. Hô hổ Hầu đem hậu quân đi đốc chiến.

Đại đô đốc Lộc, Đô đốc Tuyết đem hữu quân cùng thủy quân, vượt qua bể vào sông Lục Đầu. Rồi Tuyết thì kinh lược mặt Hải Dương, tiếp ứng đường mé đông; Lộc thì kéo về vùng Lạng Giang, Phượng Nhỡn, Yên Thế để chặn đường quân Tàu chạy về.

Đại đô đốc Bảo, đô đốc Mưu đem tả quân cùng quân tượng mã đi đường núi ra đánh phía tây. Mưu thì xuyên ra huyện Chương Đức (nay là Chương Mỹ), tiện đường kéo thẳng đến làng Nhân Mục, huyện Thanh Trì, đánh quân Điền Châu; Bảo thì thống suất quân tượng mã theo đường huyện Sơn Lãng ra làng Đại Áng thuộc huyện Thanh Trì tiếp ứng cho mặt tả.

Năm quân được lệnh đều thu xếp đâu đấy, đến hôm 30 khua trống kéo ra Bắc. Khi quân sang sông Giản Thủy 124 , cánh nghĩa quân của nhà Lê

124

Giản Thủy chắc là bến đò Giản ở giáp giới tỉnh Ninh Bình và Hà Nam bây giờ. tan vỡ chạy cả. Vua Quang Trung thân đốc các quân đuổi theo đến huyện Phú Xuyên bắt sống hết được toán quân Tàu đóng ở đấy, không một người nào chạy thoát được; vì thế cho nên không có tin báo về, những quân Tàu đóng ở làng Hà Hồi và làng Ngọc Hồi không biết gì cả. Nửa đêm ngày mồng 3 tháng giêng năm Kỷ Dậu (1789) quân vua Quang Trung đến làng Hà hồi vây kín đồn giặc, rồi bắc loa lên gọi, các quân dạ rầm cả lên, có hàng muôn người. Quân canh đồn bấy giờ mới biết, sợ hãi thất thố, đều xin hàng, bởi thế, lấy được hết cả quân lương và đồ khí giới. Sáng mờ mờ ngày mồng năm, quân Tây Sơn tiến lên đến làng Ngọc Hồi, quân Tàu bắn súng ra như mưa. Vua Quang Trung sai người lấy những mảnh ván, ghép ba mảnh lại làm một, lấy rơm cỏ giấp nước quấn ở ngoài, rồi sai quân kiêu dũng cứ 20 người khiêng một mảnh, mỗi người dắt một con dao nhọn, lại có 20 người cầm khí giới theo sau. Vua Quang Trung cưỡi voi đi sau đốc chiến, quân An Nam vào đến gần cửa đồn, bỏ ván xuống đất, rút dao ra, xông vào chém, quân đi sau cũng kéo ùa cả vào đánh. Quân Tàu địch không nổi, xôn xao tán loạn, xéo lẫn nhau mà chạy. Quân Nam thừa thế đánh tràn đi, lấy được các đồn, giết quân Thanh thây nằm ngổn ngang khắp đồng, máu chảy như tháo nước. Quân các đạo khác cũng đều được toàn thắng. Quan nhà Thanh là đề đốc Hứa Thế Hanh, tiên phong Trương Sĩ Long, tả dực Thượng Duy Thăng đều tử trận cả; quan phủ Điền Châu là Sầm Nghi Đống đóng ở Đống Đa 125

bị quân An Nam vây đánh cũng thắt cổ mà chết 126 .

Tôn Sĩ Nghị nửa đêm được tin báo, hoảng hốt không kịp thắng yên ngựa và mặc áo giáo, đem mấy tên lính kỵ chạy qua sông sang Bắc. Quân các trại nghe tin như thế, xôn xao tan rã chạy trốn, tranh nhau sang cầu, một lát cầu đổ, sa cả xuống sông chết đuối, sông Nhị Hà đầy những thây người chết.

Vua Chiêu Thống cũng theo Tôn Sĩ Nghị sang sông cùng với bà Hoàng Thái Hậu và mấy người cận thần chạy sang Tàu.

Đạo quân Vân Nam và Quý Châu đóng ở miền Sơn Tây 127

nghe tin Tôn Sĩ Nghị đã thua, cũng rút quân chạy về.

Ngày hôm ấy vua Quang Trung đốc quân đánh giặc, áo ngự bào bị thuốc súng bắn vào đen như mực. Đến trưa thì vào thành Thăng Long, sai

125

Ở cạnh Thái Hà Ấp, gần Hà Nội. 126

Về sau bọn khách trú ở Thăng Long làm cái đền thờ Sầm Nghi Đống ở ngõ Sầm Công, sau Hàng Buồm, nữ sĩ Hồ Xuân Hương có vịnh bài tuyệt cú rằng: Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo, Kìa đền Thái thú đứng cheo leo. Ví đây đổi phận làm trai được, Thì sự anh hùng há bấy nhiêu?

127

Trước đất Phú Thọ, Vĩnh Yên thuộc về địa hạt tỉnh Sơn Tây. tướng đem binh đuổi đánh quân nhà Thanh đến cửa Nam Quan. Những dân Tàu ở gần Lạng Sơn sợ khiếp, đàn ông, đàn bà dắt díu nhau mà chạy, từ cửa ải về mé bắc hơn mấy trăm dặm, tịnh không nghe thấy tiếng một người nào?

Vua Quang Trung vào thành Thăng Long, hạ lệnh chiêu an, phàm những người Tàu trốn tránh ở đâu ra thú tội, đều được cấp cho áo mặc, lương ăn. Lại bắt được cả ấn tín của Tôn Sĩ Nghị bỏ lại, trong những giấy má bắt được có tờ mật dụ của vua Càn Long nói rằng: " Việc quân nên từ đồ, không nên hấp tấp. Hãy nên đưa hịch truyền thanh thế đi trước, và cho các quan nhà Lê về nước cũ hợp nghĩa binh, tìm tự quân nhà Lê đem ra đứng đầu để đối địch với Nguyễn Huệ, thử xem sự thể thế nào. Nếu lòng người nước Nam còn nhớ nhà Lê, có quân ta kéo đến, ai là chẳng gắng sức. Nguyễn Huệ tất phải tháo lui; ta nhân lấy dịp ấy mà sai Tự quân đuổi theo, rồi đại binh của ta theo sau, như thế không khó nhọc mấy nỗi mà nên được công to, đó là mẹo hay hơn cả. Ví bằng suốt người trong nước, nửa theo đằng nọ, nửa theo đằng kia, thì Nguyễn Huệ tất không chịu lui. Vậy ta hãy đưa thư sang tỏ bảo đường họa phúc xem nó đối đáp làm sao. Đợi khi nào thủy quân ở Mân, Quảng đi đường bể sang đánh mặt Thuận Hóa và Quảng Nam rồi, bộ binh sẽ tiến lên sau. Nguyễn Huệ trước sau bị địch, thế tất phải chịu thua. Bấy giờ ta sẽ nhân mà là ơn cho cả hai bên; tự đất Thuận Hóa Quảng Nam trở vào Nam, thì cho Nguyễn Huệ; tự châu Hoan, châu Ái trở ra Bắc thì phong cho Tự quân nhà Lê. Ta đóng đại binh lại để kiềm chế cả hai bên, rồi sẽ có xử trí về sau".

Vua Quang Trung đem tờ mật dụ ấy bảo với Ngô Thì Nhiệm rằng: " Ta xem tờ chiếu của vua nhà Thanh chẳng qua cũng muốn mượn tiếng để lấy nước ta đó thôi. Nay đã bị ta đánh thua một trận, tất là lấy làm xấu hổ, chắc không chịu ở yên. Hai nước mà đánh nhau thì chỉ khổ dân. Vậy nên dùng lời nói khéo, để khiến cho khỏi sự binh đao; việc ấy nhờ nhà người chủ trương cho mới được".

Ngô Thì Nhiệm vâng lệnh làm thư đại khái nói rằng: "Nước Nam vốn không dám chống cự với đại quốc, nhưng chỉ vì Tôn Sĩ Nghị làm nhỡ việc cho nên phải thua. Vậy nay xin tạ tội và xin giảng hòa."

Vua Quang Trung sai sứ đem thư sang Tàu, và lại sai đem những quân nhà Thanh đã bắt được, để ở một nơi, cấp cho lương thực, đợi ngày cho về nước. Xếp đặt mọi việc xong rồi, đem quân về Nam, lưu Ngô Văn Sở và Phan văn Lân ở lại tổng thống các việc quân quốc; còn những việc từ lệnh giao thiệp với nước Tàu thì ủy thác cho Ngô Thì Nhiệm và Phan Huy Ích cho được tự tiện mà khu xử, hễ không có việc gì quan hệ thì bất tất phải đi tâu báo mà làm gì.

5. Vua Quang Trung Cầu Phong.

Vua nhà Thanh nghe tin Tôn Sĩ Nghị bại binh, nổi giận đùng đùng, lập tức giáng chỉ sai quan nội các là Phúc Khang An 128

ra thay Sĩ Nghị làm tổng đốc Lưỡng Quảng, đem binh mã chín tỉnh, sang kinh lý việc An Nam.

Phúc Khang An ra đến Quảng Tây nghe tiếng quân An Nam thế mạnh trong bụng đã sợ, có ý muốn hòa, bèn sai người đưa thư sang nói việc lợi hại và bảo phải làm biểu tạ tội để cho yên việc binh đao.

Vua Quang Trung bèn cho người đưa vàng bạc sang đút lót cho Khang An, rồi sai người cháu là Nguyễn Quang Hiển và quan là Vũ Huy Tấn đem đồ cống phẩm sang Yên Kinh vào chầu vua nhà Thanh và dâng biểu xin phong.

Bấy giờ quan ngoài thì có Phúc Khang An đề đạt giúp đỡ, quan trong thì có các thần là Hòa Thân 129

làm chủ trương, cho nên vua nhà Thanh mới thuận cho giảng hòa. Hòa Thân được tiền bạc của vua Quang Trung đút lót, rồi dùng lời nói khéo, điều gì cũng hợp ý vua nhà Thanh. Vua nhà Thanh bèn sai sứ sang phong cho vua Quang Trung làm An Nam Quốc Vương, và lại giáng chỉ vời quốc vương vào chầu.

Vua Quang Trung bèn chọn một người hình dung giống mình, tên là Phạm Công Trị trá làm quốc vương, rồi sai Ngô Văn Sở, Đặng Văn Chân, Phan Huy Ích, Võ Huy Tấn đưa sang Yên Kinh, vào chầu Càn Long. Ngoài những phẩm vật phải đem cống, vua Quang Trung lại đem cống thêm đôi tượng đực, làm cho các cung trạm ở dọc đường bên Tàu phảI phục dịch đưa đón thật là vất vả. Quan Tổng Đốc Lưỡng Quảng là Phúc Khang An và quan Tuần phủ Quảng Tây là Tôn Vĩnh Thanh phải đưa Quốc Vương An Nam vào Kinh.

Sang đến Yên Kinh, vua Càn Long nhà Thanh tưởng là Nguyễn Quang Trung thật, vời đến chầu ở Nhiệt Hà, cho vào làm lễ ôm gối, như là tình cha con một nhà, và cho ăn yến với các thân vương. Đến lúc về nước, vua lại sai thợ vẽ làm một bức ảnh truyền thần để ban cho ân lễ thật là hậu.

128

Phúc Khang An là người Mãn Châu, thuộc về dinh Hoàng Kỳ, vốn là người tìn dùng của vua nhà Thanh. 129

Hòa Thân cũng là người Mãn Châu về dinh Hoàng Kỳ, cùng với Phúc Khang An coi việc phiên viễn. 6. Vua Chiêu Thống Nhà Lê bị nhục bên Tàu.

Vua Chiêu Thống theo Tôn Sĩ Nghị vào thành Nam Kinh ở Quảng Tây, được ít lâu thì vua nhà Thanh sai các thần là Phúc Khang An ra thay Tôn Sĩ Nghị. Khang An muốn giảng hòa với Tây Sơn, bèn mời vua Chiêu Thống về Quế Lâm. Bấy giờ những quan cựu thần nhà Lê là: Hoàng thúc Lê Duy Án, Đinh Nhạ Hành, Đinh Lịnh Dận, Trần Huy Lâm, Lê Doãn, Lê Dĩnh, Phan Khải Đức, Bế Nguyễn Cung, Bế Nguyễn Doãn, đều lục tục sang theo vua Chiêu Thống, vào ra mắt Khang An.

Khang An dùng Đinh Nhạ Hành làm chức thủ bị Toàn Châu, Phan Khải Đức làm chức đô tư Liễu Châu, còn thì tùy tiện an trí mỗi người một nơi. Duy chỉ có Lê Duy Án, Trần Huy Lâm, Lê Doãn, Lê Dĩnh về Quế Lâm theo vua nhà Lê.

Đến tháng tư năm kỷ dậu (1789), vua tôi nhà Lê vào thành Quế Lâm, Khang An nói thác ra bảo với vua Chiêu Thống rằng: Trời đang mùa hè nắng nóng, sang đánh phương nam không tiện, nên để đến mùa thu mát mẻ sẻ khởi binh. Vậy nhà vua nên gióng giả dần bọn tướng thuộc đi trước. Nhưng nhà vua hãy nên gọt đầu thay áo, làm như dáng người Tàu, để khi về nước, giặc không nhận được mặt. Việc hành binh phải nên biến trá, đợi khi thành công rồi lại theo tục nước mà ăn mặc. Vua Chiêu Thống không ngờ là Khang An đánh lừa mình, bèn cùng với các quan cạo đầu gióc tóc và đổi y phục.

Phúc Khang An bèn làm một tờ biểu tâu với vua nhà Thanh rằng: "Vua nước Nam là Lê Duy Kỳ không có ý xin viện binh nữa, vua tôi hiện đã gióc tóc, thay áo, xin yên tâm ở lại nước Tàu. Vậy xin bãi binh đánh An Nam". Ở trong lại có Hòa Thân tán thành, bởi vậy vua nhà Thanh mới xuống chỉ bãi binh.

Vua nhà Thanh đã nghe lời bọn Phúc Khang An và Hòa Thân, và đã phong vương cho vua Quang Trung rồi, lại giáng chỉ triệu vua tôi nhà Lê về Yên Kinh 130 .

130

Bọn Lê Quýnh, Trịnh Hiến cả thảy đến 10 người sau cũng bị Phúc Khang An gọi về Quảng Tây, rồi bắt đổi áo gióc tóc như mọi người. Lê Quýnh nói rằng: "Ông cho gọi chúng tôi đến chẳng bàn được điều gì, lại dỗ chúng tôi đổi áo, gióc tóc, ấy là nghĩa gì? Đầu chúng tôi có thể chặt được, chứ tóc không gióc, da có thể lột được, chứ áo không đổi!". Phúc Khang An tức giận cho giải về cả Yên Kinh, đi đến Sơn Đông gặp vua Càn Long đi chơi, vua đòi vào hỏi sao vua An Nam đã chịu đổi áo gióc tóc theo nhà Thanh mà bọn ấy lại còn không chịu ? Lê Quýnh tâu rằng: " Chúng tôi muôn dặm tòng vong, xin cứ theo tục bản quốc vào ra mắt quốc vương, rồi sau sẽ vâng chỉ" Vua nhà Thanh khen là trung. Nhưng về sau Lê Quýnh không chịu gióc tóc, chiếu tội vi mệnh phải giam mãi.

Mùa xuân năm canh tuất (1790), vua Chiêu Thống cùng với các quan tòng vong vào kinh. Vua Càn Long để vua Chiêu Thống, bà Thái Hậu và Hoàng Tử ở ngõ Hồ Đồng, Tòa Quốc Tử Giám, cửa Tây Định ở Yên Kinh, ngoài cửa đề chữ "Tây An Nam Dinh". Còn các quan An Nam đi theo, thì cho ở ngõ Hồ Đồng, cửa Đông Trực, ngoài cửa đề chữ: "Đông An Nam Dinh".

Vua Chiêu Thống đến Yên Kinh được mấy hôm, thì thấy quan Đô Thống Nhương Hoàng Kỳ là Kim Giản phụng chỉ vua nhà Thanh ra phong cho chức Tá Lĩnh, và ban cho áo mão quan tam phẩm. Còn các quan đi theo thì cấp cho mỗi người ba lạng bạc và một thạch gạo.

Vua Chiêu Thống giận vì bị người Tàu đánh lừa, bèn cùng với bề tôi là bọn Phạm Như Tùng, Hoàng Ích Hiển, Lễ Hân, Nguyễn Quốc Đống, Nguyễn Viết Triệu, Lê Quý Thích, Nguyễn Đình Miên, Lê Văn Trương, Lê Tùng, Lê Thức uống máu ăn thề, định sống chết thế nào thì cũng dâng biểu xin binh cứu viện. Nếu không cho thì xin đất hai tỉnh Tuyên Quang, Thái Nguyên để phụng thờ tông tự; mà không nữa, thì xin cho về nước vào đất Gia Định với chúa Nguyễn để đồ việc khôi phục.

Văn biểu làm xong, đến nói lót trước với Kim Giản, Kim Giản không nghe, vua tôi nhà Lê phục xuống đất mà kêu khóc. Kim Giảng bất đắc dĩ mời vào an ủi, rồi nói rằng: hãy xin về quán nghỉ ngơi, đợi để thương lượng thế nào, sau sẽ cho biết.

Kim Giản bèn mưu với Hòa Thân phân trí vua tôi An Nam đi ở mỗi người một nơi, để cho khỏi kêu ca khó chịu.

Đến tháng tư năm tân hợi (1791) Hoàng Ích HIểu phải đày sang I-lê (thuộc Hồi-bộ ở Tây-vực, phía Tây nước Tàu); Lê Hân đày đi Phụng Thiên (Mãn Châu); Phạm Như Tùng đày lên Hắc Long Giang (Mãn Châu); Nguyễn Viết Triệu, Lê Quý Thích, Nguyễn Đình Miên, Đàm Thận Xưởng, Lê Văn Trương đày ra bến Trương-gia ở Nhiệt-hà (thuộc tỉnh Trực-lệ). Chỉ để Phạm Đình Thiện, Đinh Nhạ Hành ở lại hầu hạ vua Lê.

Vua Chiêu Thống nghe chuyện ấy lo lắng chua xót, ruột nóng như lửa đốt, sáng hôm sau cưỡi ngựa đế nhà Kim Giản, để kêu oan cho mấy người phải đi đày, gặp Kim Giản vào chầu vua nhà Thanh ở vườn Viên Minh, vua Chiêu Thống đi vào cửa vường, bị lính giữ vường ngăn cấm không cho đi. Bấy giờ có Nguyễn Văn Quyên đi theo hầu vua, thấy lũ lính vô lễ, mới nổi giận lên mà chửi mắng rằng: "Lũ chó Ngô kia sao chúng bay được làm nhục đến vua tao!" Rồi lấy gạch ném vào chúng nó. Chúng nó xúm nhau lại đánh Văn Quyên về thành bệnh mà chết.

Tự đó vua Chiêu Thống trong bụng buồn bã rầu rĩ, không dám nói đến việc xin binh nữa. Qua tháng năm năm nhâm tí (1792) hoàng tử lên đậu mất. Vua nhân dịp đó phải bệnh một ngày một nặng, đến tháng mười năm quý sửu (1793) thì mất, thọ được 28 tuổi.

Vua nhà Thanh sai theo lễ tước công mà táng ở ngoài cửa Đông Trực.

Tháng 11 năm kỷ mùi (1799) đời vua Gia Khánh thì bà Hoàng Thái Hậu mất.

Đến năm nhâm tuất (1802) nhân khi bên Việt Nam ta vua Thế Tổ nhà Nguyễn đã thống nhất cả nam bắc, và có sứ ta sang cầu phong, các quan nhà Lê mới nhân dịp dâng biểu xin đem ma Thái Hậu và Cố Quân về nước. Vua Gia Khánh cho tất cả những người Việt Nam theo vua Lê sang Tàu về nước.

Sử chép rằng khi đào đất lên để cải táng mả Cố Quân, thì thấy da thịt đã tiêu cả, chỉ còn có quả tim không nát, vẫn đỏ như thường. Ai trông thấy cũng động lòng thương xót. Dẫu chuyện đó thực hư thế nào mặc lòng, nhưng tưởng đến tình cảnh vua Chiêu Thống lúc bấy giờ, thì ai cũng ái ngại thay cho ông vua một nước, phải đày đọa đến nỗi như thế, có thể làm được một bài bi kịch thảm xót muôn đời. Tuy rằng tại vua tôi nhà Lê vụng tính cho nên bị người ta đánh lừa, nhưng cũng nên tránh vua quan nhà Thanh xử tệ, bạc đãi một ông vua vong quốc, đem thân đến nương nhờ nước mình. Ấy cũng là một thời dã man về đời áp chế, khiến cho cái oan khổ của người ta muôn đời về sau không tiêu thoát đi được.

Khi đem ma bà Thái Hậu và vua Chiêu Thống về đến Việt Nam thì bà Hoàng Phi trước phải ẩn nấp ở đất Kinh Bắc, nay lên đến Ải quan đón rước, rồi về đến Thăng Long cũng nhịn ăn mà tự tử.

Ngày 24 tháng 11, rước ma Cố quân, Thái Hậu, Hoàng Phi và Hoàng tử về táng ở lăng Bàn Thạch ở Thanh Hóa.

7. Đức Độ Vua Quang Trung.

Vua Quang Trung nhà Nguyễn Tây Sơn là ông vua anh dũng, lấy võ lược mà dựng nghiệp, nhưng ngài có độ lượng, rất am hiểu việc trị nước, biết trọng những người hiền tài văn học. Khi ngài ra lấy Bắc hà, những người như Ngô Thì Nhiệm, Phan Huy Ích đều được trọng dụng và nhất là đối với một người xử sĩ như Nguyễn Thiệp thì thật là khác thường.

Ông Nguyễn Thiệp, tự là Khải Chuyên, hiệu là Nguyệt Úc, biệt hiệu là Hạnh Am. Ông làm nhà ở Lục Niên Thành, thuộc huyện La Sơn, tỉnh Hà Tĩnh bây giờ, cho nên người ta gọi là Lục Niên tiên sinh hay là La sơn phu tử. Vua Quang Trung từ khi đem quân ra đánh Bắc hà, biết tiếng Nguyễn Thiệp, đã mấy lần cho người đem lễ vật mời ông ra giúp, ông không nhận lễ và cũng từ chối không ra. Đến khi ngài đã đăng cực, lại mấy lần cho người đến mời ông, ông có đến bái yết và khuyên vua nên lấy nhân nghĩa mà trị dân trị nước, rồi lại xin về. Vua Quang Trung tuy không dùng được ông, nhưng bao giờ cũng tôn kính ông như bậc thầy, và việc chính trị trong nước thường theo ý nghĩa của ông đã trình bày.

8. Chính Trị của vua Quang Trung.

Vua Quang Trung tuy đã thụ phong nhà Thanh, nhưng vẫn tự xử theo cách Hoàng Đế, lập bà Ngọc Hân con vua Hiển Tông nhà Lê làm Bắc Cung Hoàng Hậu, lập con là Quang Toản làm Thái Tử. Lại lấy thành Nghệ An là đất giữa nước và lại là đất tổ khi xưa ở đó, mới sai thợ thuyền tải vận đá, gỗ, gạch, ngói, sửa sang đền đài cung điện, và sai quân các đạo đào lấy đá ong để xây nội thành, gọi là Phượng Hoàng Trung Đô. Cải thành Thăng Long là Bắc Thành, chia đất Sơn Nam ra làm hai trấn, gọi là Sơn Nam Thượng, Sơn Nam Hạ 131 .

Mỗi trấn đặt quan trấn thủ và quan hiệp trấn. Mỗi huyện, văn thì đặt chức phân tri để xét việc kiện cáo, võ thì đặt chức phân suất để coi việc binh lương.

9. Quan Chế.

Quan Chế thời bấy giờ thì không thấy sử chép rõ, nhưng xem các dã sữ thì thấy có tam co6ng, tam thiếu, có Đại chủng tể, Đại tư đồ, Đại tư khấu, Đại tư mã, Đại tư không, Đại tư cối, Đại tư lệ, Thái Úy, Đại tổng quản, Đại đổng lý, Đại đô đốc, Đại đô hộ, v.v... Lại có Trung thư sảnh, Trung thư lệnh, Đại học sĩ, Hiệp biện đại học sĩ, Thị trung ngự sử, Lục bộ thượng thư, Tả hữu đồng nghị, Tả hữu phụng nghị, Thị lang, Tư vụ, Hàn lâm, v.v....

Về đường quân binh thì đặt ra tiền quân, hậu quân, trung quân, tả quân, hữu quân, v.v...

131

Trấn lị Sơn Nam Thượng ở Châu Cầu, trấn lị Sơn Nam Hạ ở Vị Hoàng. 10. Việc Đinh Điền.

Đinh thì chia ra làm ba hạng: từ 2 tuổi đến 17 tuổi làm hạn "vị cập cách"; từ 18 đến 55 tuổi làm tráng hạng; từ 56 đến 60 tuổi làm lão hạng; từ 61 trở lên làm lão nhiêu.

Ruộng cũng chia ra làm ba hạng: nhất đẳng điền mỗi mẫu phải nộp 150 bát thóc, nhị đẳng điền mỗi mẫu 80 bát, tam đẳng điền mỗi mẫu 50 bát. Lại thu tiền thập vật, mỗi mẫu một tiền và tiền khoán khố mỗi mẫu 50 đồng.

Ruộng tư điền cũng đánh thuế: nhất đẳng điền mỗi mẫu nộp 40 bát thóc, nhị đẳng điền mỗi mẫu 30 bát, tam đẳng điền mỗi mẫu 20 bát. Tiền thập vật cũng theo như ruộng công điền, còn tiền khoán khố thì mỗi mẫu phải nộp 30 đồng.

11. Việc Học Hành.

Đời Tây Sơn việc cai trị thường hay dùng chữ nôm. Nhà vua muốn rằng người Việt Nam thì phải dùng tiếng Việt Nam, để gây thành cái tinh thần của nước nhà, và cái văn chương đặc biệt, không phải đi mượn tiếng mượn chữ của nước Tàu. Vậy nên khi thi cử thường bắt quan ra bài chữ nôm và bắt sĩ tử làm bài bằng chữ nôm. Thời bấy giờ nhiều người không hiểu rõ cái ý nghĩa sâu xâ ấy, cho là vua Tây Sơn dùng hà chính mà ức hiếp nhân dân.

12. Việc Làm Chùa Chiền.

Vua Quang Trung thấy làng nào cũng có chùa chiền, mà những người đi tu hành thì ngu dốt, không mấy người đạt được cái đạo cao sâu của Phật, chỉ mượn tiếng thần thánh mà đánh lừa kẻ ngu dân, ngài xuống chiếu bắt bỏ những chùa nhỏ ở các làng, đem gỗ gạch làm ở mỗi phủ mỗi huyện một cái chùa thật to, rất đẹp, rồi chọn lấy những tăng nhân có học thức, có đạo đức, ở coi chùa thờ Phật. Còn những người không xứng đáng thì bắt về làm ăn. Ý vua Quang Trung muốn rằng chỗ thờ Phật phải cho tôn nghiêm, mà những người đi tu hành thì phải là người chân tu mộ đạo mới được.

Những việc cải cách ấy rất có nghĩa lý, nhưng vì thủa ấy có nhiều sự chiến tranh, vả nhà Tây Sơn cũng không làm vua được bao lâu, cho nên thành ra không có công hiệu gì cả.

13. Việc Định Đánh Tàu.

Trước vua Quang Trung cầu hòa với nước Tàu và chịu phong là cốt để đợi ngày có đủ sức mà đánh báo thù, cho nên từ khi trong nước đã dẹp yên rồi, ngày đêm trù tính việc đánh Tàu. Đình thần ai cũng bàn nên xét số dân đinh cho đích thực để kén lấy lính. Vua bèn xuống lệnh cho các trấn bắt dân xã làm lại sổ đinh, ai ai cũng phải biên vào sổ, rồi cấp cho mỗi người một cái thẻ bài, khắc bốn chữ "Thiên Hạ Đại Tính", chung quanh ghi tên họ quê quán, và phải điểm chỉ làm tin. Người nào cũng phải đeo thẻ ấy gọi là tín bài. Ai không có thẻ là dân lậu, bắt sung vào quân phòng, và bắt tội tổng trưởng, xã trưởng. Nhân có việc ấy, những kẻ lại dịch hiệp với xã trưởng đi lại làm bậy: thường vào làng vây bắt hỏi thẻ, làm cho dân gian nhiễu động, nhiều người phải trốn vào rừng mà ở.

Sổ đinh làm xong rồi cứ ba tên đinh kén lấy một người lính.

Quân thì chia ra làm đạo, cơ, đội. Đạo thì thống các cơ, cơ thì thống các đội. Cơ đội nào theo về cơ đội ấy, bắt phải diễn tập luôn luôn.

Bấy giờ ở bên Tàu có những giặc Tàu ô, quấy nhiễu ở miền bể bị quân nhà Thanh đánh đuổi, chạy sang xin phụ thuộc nước ta, vua Quang Trung cho người tướng Tàu-ô làm chức tổng binh, sai sang quấy nhiễu ở mặt bể nước Tàu. Lại có người thuộc về đảng Thiên Địa Hội làm giặc ở Tứ Xuyên, vua cũng thu dùng cho làm tướng.

Công việc xếp đặt đâu vào đấy rồi, đến năm nhâm tí (1792) vua Quang Trung sai sứ sang Tàu, xin cầu hôn và xin trả lại cho Việt Nam đất Lưỡng Quảng. Việc ấy tuy không phải là bản ý nhưng muốn mượn chuyện để thử ý vua nhà Thanh. Không ngờ vua Quang Trung phải bệnh mất, các quan dìm việc cầu hôn và việc xin trả đất đi, không cho Thanh triều biết.

14. Vua Quang Trung mất.

Vua Quang Trung mất năm nhâm tí (1792), làm vua được 4 năm, thọ được 40 tuổi, miếu hiệu là Thái Tổ Võ Hoàng Đế.

Triều thần bấy giờ là Bùi Đắc Tuyên, Trần Quang Diệu 132 , Vũ Văn Dũng lập thái tử là Nguyễn Quang Toản lên nối ngôi làm vua, rồi sai sứ sang Tàu dâng biểu cáo tang và cầu phong. Trong biểu nói dối rằng khi vua Quang Trung mất có dặn lại rằng phải đem chôn ở Tây Hồ gần Bắc Thành, để tỏ cái bụng quyến luyến trông về Thiên triều. Vua nhà Thanh xem biểu tưởng là thật, khen là trung, đặt tên thụy cho là Trung Thuần, lai ngự chế một bài thơ sang viếng, sai quan án sát Quảng Tây là Thành Lâm sang tế, và phongcho Quang Toản làm An Nam Quốc Vương. Trong bài văn tế có câu rằng:

Chầu ngô Nam cực,

Lòng trung nghĩa hết đạo thờ vua

Chôn đất Tây hồ

132

Có sách chép là Nguyễn Quang Diệu.

Nghĩa thần tử vẫn còn mến chúa.

15. Vua Cảnh Thịnh (1782-1802).

Khi vua Quang Trung mất thì Thái Tử là Nguyễn Quang Toản mới lên 10 tuổi, triều đình tôn lên làm vua, đặt niên hiệu là Cảnh Thịnh, sau thành Phú Xuân thất thủ, vua tôi nhà Tây Sơn chạy ra Bắc hà lại đổi niên hiệu là Bảo Hưng.

Vua Cảnh Thịnh tuy đã lên ngôi nhưng mà việc gì cũng do ở thái sư là Bùi Đắc Tuyên quyết đoán cả. Bùi Đắc Tuyên là anh ruột bà Thái Hậu, cho nên uy quyền lại càng hống hách lắm. Các quan văn võ có nhiều người không phục, bởi vậy cho nên về sau trong Triều phân ra bè đảng; các đại thần giết hại lẫn nhau. Vả lại lúc bấy giờ có vua Thế Tổ Cao Hoàng nhà Nguyễn là một bậc có tài trí, quyết chí phục thù, cho nên cơ nghiệp nhà Tây Sơn không được bao lâu mà đổ nát vậy.


Phần 1: Giới thiệu

Phần 2: Thượng Cổ Thời Đại

Phần 3: Bắc-Thuộc Thời-Đại

Phần 4: Từ nhà Ngô (931) tới nhà Hậu Trần (1414)

Phần 5:Từ thuộc nhà Minh (1414) đến đầu nhà Mạc (1527)

Phần 6: Thời Kỳ Nam Bắc Phân Tranh (1528-1802)

Phần 7 Thời nhà Nguyễn (1802 - 1865)

Phần 8 Thời Pháp thuộc