1709. Cảnh suyền: Cánh buồm đi nhanh.

1715. Hoàng Lương: Kê vàng. Xưa Lư sinh đời Đường đi thi gặp ông già họ Lã cho mượn cái gối nằm ngủ. Chàng mơ thấy mình thi đỗ, làm quan vinh hoa phú quý hơn 20 năm. Lúc tỉnh giấc thì nồi kê của nhà hàng nấu chưa chín. Người sau bèn dùng hai chữ hoàng lương để chỉ giấc mơ.

Hồn mai: Xưa có người gặp cô gái trong rừng, cùng uống rượu, sáng dậy thấy mình nằm dưới gốc cây mai. Đây chỉ có ý nói là giấc mơ màng.

1719. ả hoàn: các đầy tớ gái trẻ tuổi.

1722. Thiên quang trủng tể: Thiên quang là loại quan đứng đầu sáu lại quan do nhà Chu đặt ra. Trủng tể tức là chức tể tướng.

1724. Thất bảo: Bảy sản vật quý như vàng, bực, lưu ly, xà cừ, mã não, san hô, trân châu. ở đây chỉ cái giường có khảm các vật quý.

1731. Mèo mả gà đồng: Mèo hoang sống ở mồ mả; gà hoang sống ở ngoài đồng, người ta thường dùng để ví với hạng người lông bông, giang hồ.

1735. Gia pháp: Phép tắc trong nhà để trừng phạt gia nhân và tôi tớ.

1739. Trúc côn: Gậy tre.

1741. Đào lý: Cây đào, cây lý, thường dùng để chỉ phụ nữ.

1744. Phiên thị tỳ: Thị tỳ ở nhà quyền quý rất nhiều, chia ra từng ban và từng phiên mà hầu hạ, nên gọi là phiên thị tỳ.

1745. Thanh ly: áo xanh. Đầy tớ gái các nhà giàu sang đời xưa đều mặc áo xanh, nên gọi là thanh y.

1747. Quản gia: Trong gia đình quan lại phong kiến đời xưa thường dùng những người đàn bà đứng tuổi trông coi việc nhà và cai quản số hầu gái, gọi là quản gia.

1750. Phương tiện: ở đây có nghĩa là đối đãi, xử trí mọi việc.
Hiếu sinh: Quí trọng sinh mệnh, ý nói tránh cho người ta con đường khổ sở chết chóc.

1752. Liễu và bồ là hai giống cây mềm yếu thường được dùng để chỉ phụ nữ.

1753. Oan nghiệp: Tiền oan, nghiệp chướng, có ý nói có oan thù và tội lỗi từ thời trước để lại.

1755. Tai vách mạch rừng: Do câu thành ngữ: Rừng có mạch vách có tai.

1761. Phong trần: Nghĩa đen là gió bụi, thường được dùng để chỉ sự khổ sở mà người đời phải chịu.

1765. Túc trái tiền oan: Nợ nần, oán thù từ kiếp trước để lại.

1774. Địa ngục, thiên đường: Theo giáo lý đạo Phật thì những người độc ác sau khi chết phải xuống địa ngục để chịu tội, còn hồn những người lương thiện thì được lên thiên đường. ở đây ý nói nơi khổ ải và nơi sung sướng.

1778. Trúc tơ: Do chữ ty trúc: ty là tơ để làm dây đàn, trúc là tre để làm ống sáo. Hai chữ này thường được dùng để chỉ các thứ âm nhạc nói chung.

1786. Tương phùng: Gặp nhau. Câu này ý nói: Thuý Kiều nghĩ rằng tình nghĩa giữa mình với Thúc Sinh muốn nối lại thì hoạ chăng chỉ ở kiếp khác.

1782. ý nói: Thuý Kiều trông ra bốn bể thì thấy đâu cũng man mác một màu mây trắng mà không thấy quê nhà.

1788. Cố quốc: Nguyên nghĩa là nước cũ, sau cũng dùng như chữ cố hương (quê cũ).

1791. Uyên: do chữ uyên ương, giống chim ở với nhau từng đôi, nên người ta thường dùng để chỉ vợ chồng. Uyên bay: ý nói Thuý Kiều không còn nữa (con chim uyên đã bay mất).

1793. Trăng mới: Trăng đầu tháng. Câu nói đại ý nói: Thúc sinh trông thấy mặt trăng lưỡi liềm đầu tháng giống như lông mày người gái đẹp mà tưởng nhớ đến Kiều.

1794. Câu này đại ý nói: Thuý Kiều không còn nữa. Thúc sinh trông thấy phấn hương của nàng còn sót lại mà thương tâm.

1797. Cố nhận: Người quen biết cũ. ở đây chỉ Thuý Kiều.

1799. Gia hương: Nhà và làng, tức quê nhà. ở đây chỉ quê hương của Thúc sinh ở huyện Vô Tích.

1803. Nhà hương: Do chữ Hương khuê.

1816. Thành ngữ: Giết người không dao. ở đây chỉ mưu mẹo nham hiểm.

1823. Phách lạc hồn xiêu: Do chữ hồn phi phách tán, ý nói sợ hãi một cách ghê gớm.

1830. Động dong: Biến đổi sắc mặt, ý nói động lòng.

1831. Hiếu phục: Tang trở cha mẹ. ở đây chỉ thúc sinh vừa hết tang mẹ.

1832. Trắc dĩ: Kinh thi có câu Trắc bỉ Dĩ hề, chiêm vọng mâu hề (lên núi Dĩ trông ngóng mẹ). Người sau bèn dùng hai chữ Trắc Dĩ để nói thương nhớ mẹ.

Chung thiên: Suốt đời, ý nói không bao giờ quên.

1833. Hiếu tử: Người con có hiếu với cha mẹ.

1834. Giải phiền: Làm cho khuây khoả sự phiền não.

1835. Thù: Chén rượu do chủ nhà rót mời khách.

Tạc: Chén rượu do khách rót cho người chủ để đáp lại. ở đây nói vợ chồng Thúc sinh uống rượu và mời mọc nhau.

1836. Trì hồ: Bưng bầu rượu. ý nói bắt Kiều đứng hầu một bên để rót rượu cho hai vợ chồng Thúc sinh uống.

1846. Bồ hòn để ám chỉ người có việc buồn khổ mà không nói ra được. ở đây ý nói: chén rượu Kiều đưa mời chàng thấy đắng như bồ hòn, nhưng vì sợ Kiều bị liên luỵ phải uống hết ngay.

1856. Người ngoài là người ngoài cuộc, thi Hoạn thư: người trong là người trong cuộc chỉ Thúc sinh và Kiều.

1865. Giọt rồng: có nghĩa là thời giờ, thời khắc.

1866. Cam tậm: Thoả lòng, hả dạ.

1871. Loan phòng: Phòng nằm của đôi vợ chồng;

1875. Thuý: Chim chả. Uyên: Chim uyên ương. ở đây chỉ việc Hoạn Thư dùng mưu chia rẽ đôi lứa Thúc sinh và Thuý Kiều.

1885. Đài dinh: Đài các, dinh thự, chỉ chỗ ở của bọn quyền quý. ở đây mượn để chỉ nhà ở của Thúc sinh và Hoạn thư.

1896. Thân cung: Cung khai, khai trình.

1897. Diện tiền: Trước mặt.

1910. Cửa không: Do chữ không môn. Vì đạo Phật cho mọi vật trên thế gian đều là "không" nên người ta gọi đạo Phật là "Không môn".

1913. Quan âm các: Cái chùa thờ Phật Quan thế âm Bồ tát. Đây là chùa riêng của nhà Hoạn Thư.

1915. Cổ thụ: Cây lâu năm.

Sơn hồ: Núi giả và hồ đào ra để làm cảnh.

1917. Tàng tàng: Tang tảng sáng.

1918. Ngũ cúng: Năm vật cúng Phật, tức hương, hoa, đăng, trà, quả.

1920. Tam quy: Ba lễ "qui y" tức quy y phật, quy y pháp, quy y tăng, nghĩa là đem cả tâm thân mà theo đạo Phật.

Ngũ giới: Năm điều răn, tức là răn sát sinh, răn ăn rộm, răn tà dâm, răn nói càn, răn uống rượu.

Xuất gia: Ra khỏi nhà tức đi tu.

1921. áo xanh: Thanh y, áo các hầu gái mặc.

Cà sa: áo nhà sư mặc.

1922. Pháp danh: Tên đặt theo tập tục tôn giáo. Trạc Tuyền là pháp danh do Hoạn thư đặt cho Kiều.

1924. Xuân, thu: Tên hai người đầy tớ gái do Hoạn thư sai đến Quan âm các ở với Kiều để giúp việc hương đèn.

1926. Rừng tía: Do chữ tư trúc lâm, chỗ ở của Phật Quan âm Bồ tát.

Bụi hồng: Do chữ hồng trần, tức cõi trần tục, cõi đời.

1927. Nhân duyên: Duyên vợ chồng. ở đây chỉ duyên phận giữa Kiều và Thúc sinh.

1930. Thủ tự: Chữ viết tay.

Tâm hương: Hương lòng. Nén hương dân lên do tấm lòng thành kính.

1931. Giọt nước cành dương: Do chữ dương chi thuỷ. Theo sách Phật thì Phật Quan âm có cành dương liễu và bình nước cam lộ, khi muốn cứu ai thì lấy cành dương liễu dúng nước trong bình mà rảy vào người ấy. ở đây giọt nước cành dương dùng để chỉ phép màu nhiệm của Phật.

1932. Lửa lòng: do chữ tâm hoả, chỉ mọi thứ dục vòng do lòng người sinh ra.

Trần duyên: Duyên nợ ở cõi trần.

1937. Gác kinh: Cái gác viết kinh, chỉ chỗ ở của Kiều.

Viện sách: Tức thư viện, phòng đọc sách, chỉ chỗ ở của Thúc sinh.

1940. Vấn an: Hỏi thăm sức khoẻ.

1944. áo xanh: Do chữ thanh sam, chỉ thứ áo xanh mà các nhà nho sĩ xưa thường mặc.

1950. Cát lầm ngọc trắng: ý nói Kiều như "ngọc trắng" mà bị cát vùi dập.

1953. Tông đường: Nhà tổ tông. ở đây dùng với nghĩa: "nối dõi tông đường". ý nói Thúc sinh nghĩ mình chưa có con trai để nối dõi tông đường.

1957. Dông tố: Cơn mưa to gió lớn. ở đây chỉ sự giận giữ ghê gớm của Hoạn thư.

1987. Bút pháp: Phép viết chữ.

1988. Thiếp Lan - đình: Do chữ Lan-đình thiếp là bản bút tích rất tốt của nhà văn Vương Hy Chi, đời Tần.

1991. Thiền trà: Nước trà của nhà chùa.

Hông mai: Gỗ cây mai già dùng để nấu làm nước uống, sắc nước đỏ hồng, nên gọi là hồng mai.

1992. Thư trai: Nhà đọc sách, cũng như thư viện.

2008. Bó tay: Chữ hán là thúc thủ. Đặt hai chữ "bó tay" sau chữ "Thúc" là một cách chơi chữ của tác giả.

2011. Đãi đằng: ở đây lại có nghĩa là nói năng, làm ầm ĩ lên.

2014. Cổ nhân có câu: Nộ giả thường tình, tiếu giả bất khả t rắc, nghĩa là: Giận dữ là thói thường, cười thì không thể lường được. Câu này dùng ý ấy.

2018. Câu này ý nói: Bị giam giữ ở đây lâu, thế nào cũng có ngày mình bị hành hạ điêu đứng hơn, hoặc bị trừ khử.

2020. Câu này ý nói: Thuý Kiều nghĩ thân phận của mình như cánh bèo trên mặt nước, ở đâu thì cũng là lênh đênh cả, không còn quản gì.

2024. Kim ngân: Vàng bạc, chỉ các đồ thờ như chuông, khánh đúc bằng vàng bạc.