1276. Kỳ tâm: Tên của họ Thúc, theo truyện Thanh tâm tài nhân thì Kỳ Tầm là tên tự của Thúc sinh.
1277. Huyện Thích, Châu Thường: tức huyện Vô Tích, phủ Thường Châu, thuộc tỉnh Giang Tô (Trung Quốc).
1278. Nghiêm đường: Tức cha. Cha tính nghiêm nghị, mẹ tính hiền từ, nên người ta gọi cha là "nghiêm đường", "nghiêm phụ", mẹ là "từ mẫu", "từ thân".
1279. Thiếp hồng: Do chữ hồng tiên, thứ thiếp hồng gửi thăm người đẹp. Hương khuê: Phòng hương, phòng ở của phụ nữ, tục xưa phụ nữ hay dùng hương thơm, nên gọi là "hương khuê".
1281. Trưởng tô: do chữ lưu tô trưởng, thứ màn có tua kết bằng lông chim năm sắc.
1287. Lẽ hằng: Lẽ thường như thế.
1289. Đào mận: Nói bóng sắc đẹp của người con gái.
1290. Đá vàng: Chỉ sự đồng tâm gắn bó với nhau.
1296. Chuốc: So chữ Chước,
rót rượu mời nhau.
Nối thơ: Nối câu thơ, do chữ "liên cú"
một lối chơi của các tao nhân mặc khách thời xưa,
thường hai người, hoặc nhiều người nối lời nhau làm
chung một bài thơ.
1297. Hương sớm, trà trưa: Xông hương buổi sớm, uống trà buổi trưa.
1298. Bàn vây: Bàn cờ vây.
Trung Quốc có hai lối chơi cờ:
Vi kỳ: Cờ vây
Tượng kỳ: tức cờ tướng.
1299. Truy hoan: Theo đuổi sự vui chơi.
1301. Sóng khuynh thành: Chỉ cái liếc nhìn của người đàn bà đẹp.
1303. Bốc rời: Tiền rời cứ bốc từng nắm mà chi, không cần đếm là bao nhiêu, ý nói vung phí không tiếc tiền.
1306. Hơi đồng: Tức mùi tiền bạc. Thời xưa, tiền tiêu đúc bằng đồng, nên nói "đồng" tức là tiền.
1308. Lửa lựu: Hoa lựu khi nó nở trông đỏ chói như lửa chỉ cảnh mùa hè.
1312. ý nói Kiều có một thân thể đầy đặn xinh đẹp.
1314. Luật Đường: Tức lối thơ ngữ ngôn luật (luật năm chữ) hay thất ngôn luật (luật bảy chữ), mỗi bài tám câu, năm vần, theo đúng niêm luật bằng trắc. Lối này có từ đời Đường, nên gọi là luật Đường.
1317. Nối điêu: Nối đuôi con điêu. "Điêu" là một loài chuột ở rừng núi miền lạnh, đuôi to, lông dài đến một tấc, màu vàng hoặc đen tía. Đời Hán, theo quan chế, các quan hầu cận vua đều đội thứ mũ có cắm đuôi con điêu làm ngù. Đến đời Tần, Triệu Vương Luân cướp ngôi Huệ đế, phong quan tước cho bọn tôi tớ, mỗi khi triệu hội, ngồi đẩy những người đội mũ đuôi điêu, nên người thời ấy đã chê giếu: Điêu bất tức, cầu vĩ tục (đuôi điêu không đủ, lấy đuôi chó nối vào). Người sau nhân chữ cẩu vĩ tục điêu (nối điêu) để chỉ sự việc gì có tính chất học đòi. Chữ "nối điêu" ở đây, là lời Kiều tự khiêm về việc họa lại thơ Thúc sinh.
1318. Nỗi quê: Nỗi lòng nhớ quê hương.
1319. Mây vàng: Nói ý nhớ nhà, do câu thơ cổ: Tần Trung đa bạch vân. Thục trung đa hoàng vân, cố tư gia giả vị chi cư hoàng vân (đất Tần nhiều mây trắng, đất Thục nhiều mây vàng, cho nên nhớ nhà gọi là nhớ mây vàng).
1322. Cành kia, cỗi này: Chỉ Kiều và Tú bà. Thúc sinh tưởng Kiều là con đẻ của Tú bà.
1323. Thu ba: Sóng mùa thu, chỉ con mắt (nói con mắt trong suốt như suối mùa thu).
1327. Chúa xuân: Người chủ vường xuân, chủ hoa xuân, đây chỉ Thúc sinh. Câu này ý nói: Thúc Sinh ở nhà đã có vợ rồi.
1329. Tương tri: Hiểu biết nhau thông cảm với nhau.
1330. Nước non: Sông núi tức lời thề nguyền kết làm vợ chồng.
1334. Thú, tòng: Thú là "thú thiếp": lấy vợ lẽ, chỉ bên Thúc sinh; tòng "tòng lương": trở về lương, tức bỏ chỗ lầu xanh để trở về, đi lấy chồng, chỉ bên Kiều. Hai bên cùng gặp nhiều khó khăn.
1335. Bình khang: Đời Đường, ở kinh thành Trường an, gần cửa Bắc, có một xóm gọi là Bình Khang cho kỹ nữ ở, sau nhân dùng làm danh từ chỉ chung xóm kỹ nữ.
1339. Thềm quế: Thềm điện quế. Dâu đương tạp trở chép: Trên mặt trăng có cây quế tiêu, cao năm trăm trượng, do đó, khi tả mặt trăng, người ta thường dùng chữ điện quế, cung quế.
1340. Chị Hằng: Chị Hằng Nga, người chủ trương trong điện quế, nói bóng vợ cả Thúc sinh.
1341. Giải đồng: Giải đồng tâm.
1342. Thêm người, người cũng... chữ người chỉ Kiều, chữ người dưới chỉ Thúc sinh.
1343. Bèo mây: Nói thân phận trôi nổi bất định như bèo mặt nước, mây trên không.
1344. Bể ái: Bể ân ái, tức tình yêu vợ chồng.
1347. Vững tay co: Cái tay co vững. Kiều nói: Nếu chàng có cứng tay, tức có quyền lực đối với vợ cả.
1349. Trong ngoài: Chỉ vợ cả và Thúc sinh. Theo lễ giáo xưa: Nam t ự ngoại, nữ tự nội: Đàn ông trong coi việc bên ngoài, đàn bà trông coi việc trong nhà. ý Kiều nói: Nếu thế lực vợ cả lớn hơn thế lực chàng.
1350. Hàm sư tử: Đời Tống, Trần Tháo, hiệu Long Khâu cư sĩ, hay nói chuyện đạo Phật, vợ là Liễu thị, tính dữ tợn mà cả ghen, mỗi khi Tháo thết tiệc tân khách, có ca kỹ, thì ở trong nhà, Liễu thị lấy gậy đập vào vách, hò hét, khách phải giải tán. Tồ Thức, Bạn Tháo, viết mấy câu thơ đùa:
"Thuỳ tự Long Khâu cư sĩ hiền,
Đàm không thuyết hữu dạ bất miên,
Hốt văn Hà Đông sư tử hồng
Trụ trượng lạc thủ tấm mang nhiên".
Dịch nghĩa:
"Ai giỏi như Long Khâu cư sĩ
"Nói những thuyết không, thuyết có, đếm không ngủ
"Bỗng nghe sử tử Hà Đông rống lên
"Tay rơi gậy chống, lòng bàng hoàng.
Đằng la: Những loài dây leo (chính nghĩa là dây bim, dây tơ hồng) dây dùng như chữ cát đằng dây bìm, ví với phận lẽ mọn.
1352. Một số cố lão ở Nghệ - Tĩnh thuộc hai chữ đầu câu này là Dấm vùi hay Nhúm vùi. ý nói: lửa bếp vùi âm ỉ cháy (chỉ thói ghen tuông) còn khó chịu hơn cả lửa hồng.
1353. Nhà thông: Nhà thung, đọc chệch ra, tức nhà xuân, do chữ xuân đường chỉ bố Thúc sinh.
1355. Liễu ngõ, hoa tường: Nói ví gái lầu xanh như liễu bên đường, hoa đầu tường, ai vin ai hái cũng được.
1363. Ngô, Lào: Nước Ngô (Trung Quốc), nước Lào (Ai Lao) tác giả dùng nghĩa bóng. ý nói: Đừng nghĩ ngợi xa xôi, quanh quẩn làm gì.
1366. Phong ba: Sóng gió, chỉ sự bất trắc xẩy ra.
1370. Non đoài: Núi ở phía tây.
1371. Trúc viện: Viện trúc, nơi nghỉ mát có trồng trúc xung quanh.
Thừa lương: Hóng mát, nghỉ mát, Thúc sinh mượn cớ là đưa Kiều đi hóng mát.
1373.Chiến, hoà: ở đây, chiến là dịa chuyện kiện cáo, hoà là lựa cách điều đình. Theo Kim vân Kiều truyện của Thanh Tầm: Thúc sinh đưa Kiều về ở nhà Hoa Dương, một tay hào phú xứ ấy, rồi một mặt cậy Hoa Dương rêu rao về tội mua con gái nhà lương thiện về làm gái điếm, một mặt mượn Bộ Tần đến đièu đình việc chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh.
1376. Thua cơ: Thua mưu, thua mẹo của Thúc sinh.
1378. Hoàn lương: Gái đĩ bỏ nghề cũ trở về đời lương thiện.
1380. Trần ai: Bụi bậm chỉ cảnh lầu xanh.
1381. Trúc, mai: Chỉ sự giao kết thân mật của vợ chồng.
1383. Hương lửa: Chỉ tình duyên vợ chồng.
1384. Ngọc sen: Hai câu tỏ ý "sum họp" mai trúc đã về một nhà.
1386. Sân ngô: Sân có trồng cây ngô đồng. Ngô đồng là một loài cây cao, cành lá xanh biếc, nên thường gọi là bích ngô chen lá vàng giữa chòm lá xanh biếc, tức trời đã sang thu.
1387. Giậu thu: Giậu hoa mùa thu.
Giò sương: giò hoa chịu được sương, ý chỉ hoa cúc.
1389. Phong lôi: gió, sấm, nói cơn giận nổi lên dữ dội như gió, như sấm.
1390. Nặng lòng e ấp: Thúc ông trong lòng lấy làm e sợ về việc để cho con gái lầu xanh như thế, vì không những làm xấu thanh danh nhà mình, mà đối với Hoạn thư cũng sẽ có chuyện lôi thôi.
1391. Biện bạch: ở đây nghĩa là phán bảo minh mạch, rành rọt.
1393. Nghiêm huấn: Lời dạy của bố.
1396. Sấm sét: Do chữ lôi đình, chỉ sự ra uy, như quát mắng đánh đập.
Búa rìu: Do chữ phủ việt, chỉ dự gia hình, ý cả câu: Dẫu đánh mắng hay giết chết cũng xin chịu.
1397. Tay đã nhúng chàm: Cái tay đã nhúng vào chàm, thì dù rút ra cũng bị nhuốm chàm xanh rồi.
1400. Đã lấy nhau thành vợ chồng thì nỡ nào lại lìa bỏ, cũng như nỡ ôm đàn cầm mà gẩy thì nỡ nào lại đứt dây cho được.
1402. Bạc đen: Chưa thực rõ nghĩa. Có người giải bạc đen là sống chết cũng liều.
1404. Sốt gan: Nóng gan, như nói nóng tiết.
Cáo quỳ: Cáo là thưa trình, quì là quì gối, tức quì gối mà đề đơn thưa trình. Lệ xưa, ai vào quan thưa trình việc gì, phải quì gối trước công đường đầu đội lá đơn.
1405. Đất bằng nối sóng: Do chữ Bình địa ba đào.
1406. Phủ đường: Dinh quan phủ, ở đầy chỉ quan phủ.
Phiếu hồng: Tờ trát của quan.
Thôi tra: Đòi lên xét hỏi.
1408. Sân hoa: Sân phủ đường (chữ hoa ở đây chỉ đặt cho đẹp lời)
1409. Mặt sắt: Do chữ thiết diện, mặt đen và cứng rắn như sắt, thường mượn để chỉ một vị quan cương trực, nghiêm nghị.
1415. Nguyên đơn: Đơn của người nguyên cáo, tức Thúc ông (Thúc sinh và Kiều là bị cáo).
1419. Gia hình: Gia hình có nghĩa là bắt phải chịu tội, hình phạt, ở đây là phạt trượng tức dùng trường (gậy) mà đánh.
1422. ý Kiều nói: Đã quyết tình hoàn lương rồi, không muốn lại lần nữa mắc vào cảnh lầu xanh, như con nhện lại vướng víu vào lưới tơ thêm một lần nữa.
1423. Đục, trong: ý nói: dù đục hay trong, dù dở hay hay.
1424. Yếu thơ: Yếu ớt, thơ dại.
Lôi đình: Sấm sét, chỉ hình phạt.
1426. Ba cây: Do
chữ tam mộc là thứ hình cụ thể bằng gỗ thời
xưa, tức già, nữu giới (cái gông cổ, cái kẹp
tay và cái cùm chân). ở đây, chữ bạ cây, chỉ
các hình phạt dồn vào cái thân yếu ớt của Kiều.
Mẫu đơn: Cành hoa đẹp ví nói Kiều.
1437. Phủ đường: chỉ vào quan phủ.
1440. Cầu thân: Cầu làm thân, nói việc định lấy nhau.
1446. Giải vi: Cởi, gỡ vòng vây ra, đây ý nói gỡ cho ra lối thoát để giải quyết việc rắc rối này.
1452. Mộc già: Cái gông. Đầu đề bài thơ là vịnh cái gông.
1455. Giá đáng Thình
Đường: ý nói tương đương với thơ Thịnh
Đường.
Thịnh Đường: là giai đoạn phồn thịnh nhất thơ
của triều đại nhà Đường, Trung Quốc;
1458. Châu Trần: ở châu Từ, về huyện Phong, xưa kia có họ Châu và họ Trần, đời đời làm thông gia với nhau, về sau người ta dùng hai chữ Châu Trần để nói sự lấy nhau đẹp đôi xứng lứa.
1459. Rước dữ cưu hờn: Mua rước lây điều dữ và cưu mang lây sự hờn giận.
1467. Cổ xuý: Cổ là những nhạc khí dùng để đánh như chiêng, trống. Xuý là những nhạc khí để thổi, như kèn sáo.
1468. Trường đào: Màn hoa đào, đây tức là buồng cưới.
1470. Huệ lan: Hoa huệ, hoa lan, ngụ ý nói cảnh sum họp.