806. Phong tình: ăn chơi phóng đãng bất chính.

809. Lầu xanh: Do chữ thanh lâu: Cái lầu sơn mầu xanh. Chữ thanh lâu nguyên chỉ lầu ở của phái quyền quí hay vua chúa, hoặc chỉ lầu ở của mỹ nhân. Về sau thanh lâu mới có nghĩa là nhà hát, nhà điếm.

810. Làng chơi: thuộc loại gái điếm gái làng chơi.

812. Mạt cưa mướp đắng: Chuyện cổ tích: "Một người lấy mạt cưa làm cám, đợi lúc nhá nhem tối, đem ra chợ bán, lại gặp một người đem mướp đắng giả làm dưa chuột ra bán. Hai người bán lẫn cho nhau, thế là bợm lại mắc bợm". Đây nói Mã Giám sinh và Tú bà cùng là phường bịp.

814. Buôn phấn bán hương: Mua những con gái ở các nơi về làm gái điếm. Phấn và hương là hai thứ nữ giới dùng để trang điểm, nên mượn để chỉ chung nữ giới.

Đã lề: ý nói đã thành nề nếp, đã quen nghề.

815. Chợ: Kẻ chợ, tức nơi thành thị, đô hội. Khắp chợ thì quê: Lối nói cổ, có nghĩa là: khắp chợ cùng quê, khắp vùng kẻ chợ đến miền thôn quê.

816. Giả danh hầu hạ: Mượn tiếng là tìm nàng hầu vợ lẽ để về hầu hạ.

Dạy nghề ăn chơi: Dạy nghề làm gái điếm kiếm tiền.

819. Thuyền quyên: Nguyên nghĩa là óng ả xinh tươi để chỉ người phụ nữ đẹp.

821. Mẹo lừa: mưu mẹo lừa dối.

Khuôn: Như nói vành, đã mắc vào vành không ra được nữa.

822. Nghinh hôn: Đón dâu.

823. Cờ đến tay: Đây mượn câu tục ngữ: Cờ đến tay ai, người nấy phất, để nói ý nghĩ của Mã: Kiều đã vào tay mình rồi muốn làm gì thì làm.

824. Vẻ ngọc: Vẻ mặt đẹp như ngọc.

Khúc vàng: Khúc lòng.

826. Câu này do chữ nhất tiểu thiên kim: Một nụ cười của người đẹp đáng giá nghìn vàng.

827. Bẻ hoa: Tức phá trinh tiết của Kiều.

828. Vương tôn: Chỉ con gái các nhà quí phái.

834. Câu này ý nói: Đào tiên đã tới tay,thì vin cành bẻ phắt đi cho thoả sự đời (tức là làm ngay cái việc "nước trước bẻ hoa" ở trên).

835. Dưới trần: Như nói trong cõi đời, ở đời. Mấy mặt: Mấy người.

836. Biết hoa: Biết giá trị của hoa. ý nói: Bọn làng chơi đã dễ mấy người phân biệt được gái tân với gái mất tân.

837. Nước vỏ lựu, mái mào gà: Theo sách Bắc lý chi: Gái thanh lâu tiếp khách xong, lại lấy nước vở lựu máu mào gà sống để rửa, giả làm gái còn tân để đánh lừa khách chơi.

838. Chiêu tập: Dùng cách sửa chữa làm như còn nguyên vẹn.

839. Con đen: Những người còn trẻ tuổi mà khờ dại, đây chỉ những khách chơi không sành sỏi.

845. Trà mi: Một thứ hoa nở về mùa xuân đầu hạ, hoa mầu vàng nhạt rất đẹp.

848. Ngọc, hương: Ngọc đẹp, hương thơm, ví với người đẹp.

850. Đuốc hoa: Do chữ hoa chúc: đuốc hoa, nến hoa.

858. Quyên sinh: Bỏ đời sống, tức tự tử.

860. Hai tình: Chỉ cha mẹ. ý nói: Một mình thì tự tử chẳng sao, nhưng còn cha mẹ thì làm thế nào?

862. Truy nguyên: Tìm đến căn nguyên, gốc rễ của sự việc.

863. Giãn: Nới ra. Nỗi lòng của Kiều lúc trước như bị bóp nghẹt, nay nghĩ đi nghĩ lại, thấy nới dần ra.

864. Một lần: Một lần chết. Kiều nghĩ: chóng hay chậm, cũng một lần chết, nếu bây giờ nàng chết đi tất liên luỵ đến cha mẹ.

866. Gáy sôi:: Gáy ầm ỹ, dồn dập. Chữ "sôi" có hàm ý giục giã.

867. Lầu mai: Chòi canh về sáng.

Còi sương: Tiếng tù và thổi lúc sớm tinh sương.

869. Đoạn trường: Đứt ruột có nghĩa đau đớn quá (như dứt từng khúc ruột). Phân kỳ: Chia đường, chia lìa mỗi người mỗi ngả như nói "chia tay".

870. Vó câu: Vó ngựa (Câu: ngựa non đang sức lớn). Những chữ "khấp khểnh", "ghập ghềnh" vừa tả con đường đi gồ ghề khó khăn, vừa ngụ ý thân thế Kiều đã long đong vất vả ngay từ lúc bước chân ra đi...

871. Trường đình: Đời Tần, Hán, người ta chia đường ra từng cung, cứ năm dặm là một cung ngắn, có một cái quán, gọi là "đoản đinh" (quán ngắn) mười dặm là một cung dài, lại có một cái quán nữa gọi là "trường đình" (quán dài). Tục cổ, chủ thường tiễn khách ra khỏi mười dặm đường làm tiệc tiến hành ở trường đình rồi mới trở về.

873. Chủ khách: Chỉ Vương ông Mã Giám sinh.

877. Thơ đào: Đây có nghĩa là con gái ít tuổi, ngây thơ.

884. Dùng dắng: Dùng dằng, do dự, khi Mã vào trong phòng Kiều thì do dự mà khi ở phòng ra thì vội vàng.

886. Thầy tớ: Chỉ Mã và bọn tôi tớ Mã.

893. Tuần: Tuần rượu, mỗi chén rượu đôi bên cùng uống cạn là một tuần.

Chén khuyên: Chén khuyên mời, đây là chén rượu tiến.

894. Nghỉ: Nó, hắn, y, thổ âm Nghệ Tĩnh đây chỉ Mã.

986.Trước yên: Trước yên ngựa của Mã.

897. Yếu liễu thơ đào: ý nói Kiều còn yếu ớt thơ dại, ví như cây liễu yếu cây đào non.

899. Góc bể chân trời: Do chữ hải giác thiên nhai: Góc biển cả, chỗ cùng nận bầu trời ý nói xa xôi hết sức.

901. Tầm: Một đơn vị đo lường cổ của Trung Quốc, dài tám thước.

Nghìn tầm: 8000 thước, nghĩa bóng: cao lắm!

Tùng quân: Tùng là cây thông, một thứ cây cao lớn, lthân thẳng và cứng cáp, mùa đông lá cây vẫn xanh tươi, trong văn cổ, thường dùng để tượng trưng cho người trượng phu. Quân là cây trúc, dóng thẳng đốt ngang, thân rỗng mà không cong queo, thường dùng để tượng trưng cho người quân tử.

902. Tuyết sương che chở: Tức che chở cho khỏi tuyết sương.

Cát đằng: Dây sắn, một loại day phải leo bám vào những cây to, người ta thường nói "cát đằng" "cát luỹ" hay "sắn bìm" để chỉ người vợ thiếp.

904. Nhiệm trao: ý nói số trời mầu nhiệm đã buộc sợi "xích thằng".

906. Gương nhật nguyệt: Gương mặt trời, mặt trăng. Chữ "gương" hàm ý soi tỏ tội lỗi. Dao quỷ thần: Gươm dao của quỷ thần, hàm ý trừng phạt, ý Mã nói: nếu sau này ăn ở không thuỷ chung, sẽ có trời soi tỏ tội lỗi và bị quỷ thần trừng phạt.

907. Gió giục mây vần: Tả xe Kiều đi mau lẹ, vội vã.

909. Trông vời: Tức trông với theo một cái gì đó đã đi xa.

9912. Bạc phau: Trắng phau, trắng xoá.

Cầu giá: Váng sương bám trên mặt cầu buổi sớm mai.

Ngàn mây: Những đám mây ở những nơi rừng núi. Câu này tả cảnh cuối thu, bắt đầu sang đông.

913. Hơi may: Hơi gió heo may.

915. Ngất tạnh: Bầu trời cao ngất mà tạnh ráo.

Mù khơi: Mù mịt xa khơi.

916. Lời non sông: Kiều thấy trăng mà nhớ đến cái "vầng trăng" đêm nào đã chứng kiến cuộc thề nguyện của hai người.

917. Từng biếc xen hồng: Rừng cây mùa thu có những lá úa màu đỏ xen giữa từng lá mùa xanh.

918. Thần hôn: Sớm hôm, chỉ sự sớm hôm chăm sóc thăm hỏi cha mẹ.

920. Lâm tri: Tên huyện, thuộc tỉnh Sơn Đông.

921. Xe châu: Xe có rèm hạt châu, thứ xe phụ nữ ngồi.

927. Mày ngài: Tức mấy ả gái điếm.

930. Tượng: Bức tranh vẽ. Tượng trắng đôi lông mày tức tranh thần "Bạch mi".

932. Tiên sư: Tổ sư, ông tổ sáng lập ra một nghề. Chữ dùng hàm ý mỉa mai.

937. Đổi hoa: Như nói thải hoa, tức như lấy hoa mới để thờ, thải hoa cũ lót xuống dưới chiếu để nằm.

938. Tứ vi: Bốn phía xung quanh.

942. Hàn thực: Ăn lạnh, ăn đồ nguội.

Giới Tử Thôi giúp Tấn Văn Công khôi phục lại ngôi vua, nhưng lúc ân thưởng triều thần. Văn Công lại quên mất Tử Thôi. Tử Thôi bất bình trốn vào núi ở ẩn. Đến lúc Văn Công nghĩ lại, muốn vời Tử Thôi, nhưng Tử Thôi quyết chí ở ẩn, Văn Công ra lệnh đốt rừng Tử Thôi quyết tâm chịu chết cháy ở trong núi. Văn Công hối hận vô cùng ra lệnh hàng năm đúng ngày Tử Thôi chết, cấm không được đốt lửa. Do đó mà có tục hàn thực, cứ trước...tiết thanh minh hai ngày (có sách chép một ngày) người ta cấm đốt lửa, ăn đồ nguội, và tổ chức nhiều cuộc vui: đá cầu, đánh đu, chọi gà, kết xe hoa đi dong chơi.

Nguyên tiêu: Đêm tiết thượng nguyên, tức đêm ngày rằm tháng riêng đầu năm. Đây Tú bà khấn thần phù hộ cho cửa hàng lầu xanh của mụ, ngày lại đêm, lúc nào khách chơi cũng ra vào đông đúc, tấp nập như những ngày hội hàn thực nguyên tiêu.

945. Tin nhạn: Tô Vũ, người đời Hán, đi sứ sang Hung nô không chịu khuất phục, bị chúa Hưng nô đầy lên Bắc Hải chăn dê, nhà Hán hỏi, thì bảo là chết rồi, sau sứ Hán phải nói thác là vua Hán săn được con chim nhạn ở vườn thượng lâm chân nó có buộc một bức thư lụa của Tồ Vũ gửi về, khi ấy Hưng nô mới chịu trả lại Tô Vũ cho nhà Hán. Do đó, người ta thường nói "tin nhạn" để chỉ tin thư. ở đây, tác giả dùng như nghĩa "tin tức" đơn thuần.

949. Hương hoa gia đường: Bốn chữ này nguyên chỉ nhà hay bàn thờ cúng gia tiên, đây tác giả dùng chỉ bàn thờ thần Bạch mi.

952. Cậu mày: Tức cha mày, chỉ Mã Giám sinh, Tú Bà bắt Kiều lạy nhận mụ là mẹ nuôi. Mã Giám sinh là cha nuôi.

954. Tiểu tinh: Sao nhỏ, chỉ vợ lẽ.

962. Tam banh: Theo sách Đạo giáo "Trong người ta có ba thần thi: Thượng Thi, tên Bành Chất, ở bụng; Hạ Thi, tên Bành Kiệu, ở chân, thường làm hại người". Do đó, người ta cho rằng: những sự hung ác giận dữ của người là do thần "Tam thi" hay"Tam Bành" làm ra, và thường dùng chữ tam bành để chỉ cơn tức giận.

964. Min: Ta, tao (tiếng cổ).

978. Bì tiên: Cái roi bằng da.

986. Phong trần: Cõi đời gió bụi. ý nói: Một nhát dao oan nghiệt cắt đứt quan hệ với cuộc đời phong trần tức là chết.

993. Trần duyên: Nhân duyên cõi trần, cõi đời.

1000. Tiền đường: Tên một con sông chảy qua gần Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang (Trung Quốc).

1006. Hoa xuân đương nhuỵ: Hoa xuân đương lên nhuỵ, tức mới nở. ý nói Kiều còn trẻ trung.

1008. Đá vàng: Đây chỉ lòng kiên trinh của phụ nữ.

1010. Khoá buồng xuân: Khoá kín vẻ xuân trong buồng, như nói cấm cung.

Đợi ngày đào non: Đợi ngày lấy chồng.

1013. Tội báo: Như nói là ác báo.

Oan gia: Kẻ oán thù, cừu thù.

1016. Thị phi rạch ròi: Lẽ phải, lẽ trái phân minh. Đại ý: Kiều nghe lời Tú Bà nói cũng có lý.

1017. Thần mộng: Lời báo mộng của quỉ thần (tức Đạm Tiên).

1018. Tức nhân: Nhân duyên có sẵn từ trước, như nói duyên số tiền định.

1025. Đãi đằng: Tiếng cổ, nghĩa là giãi bày.

Ca dao:

Cá buồn cá lội tung tăng
Em buồn em biết dãi dằng cùng ai.

ở đây đãi đằng có nghĩa là điều ra tiếng vào của những người khách chơi.

1027. Thong dong: ở đây có nghĩa là khoan tâm, thư tâm.

1033. Ngưng bích: Tên cái lầu mà Tú Bà dành cho Kiều ở.

Ngưng Bích: Nghĩa là đọng (tụ) lại màu biếc.

1036. Bụi hồng: Đây chỉ những đám bụi bốc lên ở trên đường.

1037. Bẽ bàng: Chán ngán, buồn tủi.

1039. Chén đồng: Chén đồng tâm, tức chén rượu thề nguyền đồng tâm với nhau.

1042. Tấm son: Tấm lòng son, đây chỉ tấm lòng thuỷ chung.

1044. Quạt hồng, ấm lạnh: Quạt khi nồng, ấp khi lạnh, do chữ đông ôn hạ sảnh ở Kinh Lễ.

1045. Sân Lai: Sân Lão Lai. Theo sách Cao Sĩ truyện: "Lão Lai Tử, người nước Sở, đời Xuân Thu, tuổi đã ngoài bảy mươi, mà còn cha mẹ già, ông thường mặc áo ngũ sắc sặc sỡ, ra múa ở trước sân, rồi giả cách ngã, khóc, như trẻ con, để làm cho cha mẹ vui". Đây nói bóng sân nhà cho mẹ, tức nhà mình.

1046. Gốc tử: Gốc cây tử (loài cây thị). Đây dùng chỉ cha mẹ, "gốc tử đã vừa người ôm" nói bóng cha mẹ đã già rồi.

1053. Ghềnh: Vực sâu, vũng biển.