2297. Nghiêm quân: Chỉnh đốn hàng ngũ quân lính.

Tuyển tướng: Lựa chọn tướng tá.

2298. Ruổi sao: Do chữ tinh trì, ý nói đi nhanh như sao đổi ngôi.

2299. Ba quân: Danh từ chỉ chung quân đội. Đời xưa các nước chư hầu có ba quân, mỗi quân 12.500 người. Và các nước thường chia quân đội làm ba bộ phận: trung quân, tả quân, hữu quân; hoặc: trung quân, thượng quân, hạ quân.

2303. Lệnh tiễn: Cờ lệnh có cắm mũi tên sắt của các tướng soái dùng để làm hiệu lệnh hoặc để làm tin.

2307. Thệ sư: Lời tuyên cáo và hiểu dụ quân sĩ trước lúc xuất quân.

2308. Chấp uy: Chấp hành uy lệnh.

2309. Báo phục: Bảo trả lại, ý nói làm ân thì sẽ được trả ân, làm oán thì sẽ có lúc bị người ta trả oán.

2312. Cơ, về: Tên gọi các đơn vị quân lính đời xưa.

Thị lập: Đứng chầu.

Song phi: Dàn làm hai hàng.

2314. Bác đồng: Súng bằng đồng.

2315. Trường hùm: Dịch chữ hổ trướng. Xưa thường dùng da hùm làm thành cái màn lớn để chủ soái họp bàn với các tướng, nên người sau quen dùng chữ "hổ trướng" để chỉ chỗ làm việc của các tướng soái.

Trung quân: Đội quân đóng ở giữa, do chính chủ tướng chỉ huy.

2318. Cửa viên: Viên là cái càng xe. Đời xưa lúc quân đội cắm trại thường dùng xe làm cửa, nên cửa doanh trại của quân đội gọi là "viên môn".

2326. Chàm đổ: Mặt xanh như màu chàm đổ vào.

Giẽ run: Mình run như chim giẻ.

2329. Sâm và Thương: Theo nhận thức của người xưa, thì sao Sâm ở phương tây sao Thương ở phương đông, sao này lặn sao kia mới mọc. Hai sao này không bao giờ gặp nhau, nên người ta dùng để chỉ cảnh xa cách mỗi người một nơi. Đối chiếu thiên văn học hiện nay đó là hai sao Orion và Scorpion.

2334. Tục ngữ: Kẻ cắp gặp bà già, ý nói hai kẻ ranh ma quỷ quái lại gặp phải nhau.

2341. Mụ già: Chỉ bà quản gia nhà họ Hoạn.

Sư trưởng: Chỉ Giác Duyên.

2348. Phiếu mẫu: Bà làm nghề giặt sợi ở bến nước. Hàn Tín đời Hán lúc hàn vi được bà Phiếu mẫu đãi một bữa cơm, sau làm đến tước vương, tạ ơn nghìn vàng.

2353. Hiến phù: Dâng nộp những người bắt được.

2354. Hậu tra: Chờ để tra xét.

2377. Tri quá: Biết lỗi, từ mình biết nhận rằng mình có lỗi.

2382. Hại nhân, nhân hại: Làm người thì sẽ bị người làm hại.

2387. Nội đao: Quân đao phủ, chuyên việc chém người.

2395. Pháp trường: Chỗ để hành hình người có tội.

2396. Thanh thiên bạch nhật: Trời xanh ngày trắng, ý nói giữa ban ngày ban mặt, ai cũng được chứng kiến.

2398. Từ qui: Từ giã ra về.

2399. Thiên tải nhất thì: Ngàn năm mới có một dịp. Câu này thường dùng để chỉ dịp may hiếm có.

Bàn hoàn: Đây có nghĩa là gặp gỡ trò chuyện.

2404. Hạc nội: Chim hạc ở ngoài đồng nội. Mây ngàn: Đám mây bay trên rừng núi. ý nói nay đây mai đó, nơi ở không nhất định.

2405. Hành cước: Đi bộ, tiếng nhà Phật, chỉ việc các nhà sư đi vân du.

2406. Tiên tri: Biết trước mọi việc chưa xảy ra.

2407. Hội ngộ chi kỳ: Cái kỳ hẹn gặp gỡ nhau.

2409. Tiền định: Đã định sẵn từ trước.

2416. Chung thân: Trọn đời, ý nói Kiều muốn hỏi số phận của mình suốt đời ra sao.